Cu Tí kinh doanh gì ở đây?

Mua dân chủ của Bần nông gia,bán kiến thức cho Bác học nhà...

Thứ Sáu, 16 tháng 3, 2012

Tây – Nam sử .


Theo Việt nam sử lược : Mã viện sau khi đánh bại thành phần chính của quân khởi nghĩa Hai bà Trưng đã tiến quân vào Cửu chân truy quét quân của Đô Dương bộ tướng của hai bà .

Trong 1 bài viết trước tôi đã nghĩ Đô Dương chính là Đạt vương là anh hùng của người Choang cũng là Khu Liên tức Khu Đạt - Đạt vương nhưng nay thấy không phải thế mà Đạt vương có thể là Triệu quốc Đạt anh của nữ tướng Triệu thị Trinh hay Chinh .

Triệu quốc Đạt thực ra là Triệu quốc Đoạt là ‘chức hiệu’ không phải là họ tên , Triệu là chúa , quốc Đoạt cũng là quốc Tây ( quốc tây cự chấn tráng Chân đăng ), Đoạt là tên khác của quẻ Đoài trấn hướng tây trong hậu thiên Bát quái , phương Đoài cũng là phương tây trong nền văn minh Việt , Triệu quốc Đoạt nghĩa là chúa Tây quốc hay thục quốc .

Sử viết Triệu quốc Đạt và em là Triệu thị Trinh khởi binh năm 246 ở Cửu chân – Thanh hoá chống lại ách thống trị của nhà Ngô thời Tam quốc . thời kỳ Tam Quốc ở Trung Hoa có Ngụy (220-265), Thục Hán (221-263) và Đông Ngô (222-280); nước ta lệ thuộc dưới sự thống trị của Đông Ngô, dân tình vô cùng khổ sở, lầm than.

Nhân dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân đã nổi dậy hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của anh em Bà Triệu. Khi ra trận bà thường cưỡi voi, chít khăn vàng trên đầu, trông rất oai phong, bà còn được nhân dân phong là “Nhụy kiều tướng quân”. Nghĩa quân do bà chỉ huy đánh thắng quân Ngô nhiều trận. Nhà Ngô lo sợ phải đưa thêm 8000 quân sang nước ta đàn áp phong trào khởi nghĩa. Hai bên giao chiến với nhau nhiều trận nhưng vẫn bất phân thắng bại, trong khi nghĩa quân của bà ngày một ít lại. Trước sự tương quan lực lượng đó, bà đã bảo vệ khí tiết của mình, không chịu rơi vào tay của bọn giặc. Bà Triệu đem quân lên núi Tùng (Phú Điền, Hậu Lộc, Thanh Hóa) và rút gươm tự sát vào năm Mậu Thìn (248), lúc mới 23 tuổi .

Bậc Nữ Vương hy sinh lúc còn trinh trắng nên còn gọi là Triệu Trinh Vương ?

Đúng là tào lao kiểu ‘nho chùm’ , thực ra : Triệu là chúa , Triệu thị là bà chúa hay nữ chúa , Trinh có thể là tên riêng hoặc cũng có thể là 1 trong 4 chuẩn mực suy tư theo Dịch học được nói đến trong quẻ Càn và quẻ Khôn : nguyên - hanh - lợi - trinh , Trinh ở đây nghĩa là bền vững không đổi , về phương hướng là phương Tây đồng nghĩa với Đoài – Đoạt , Triệu thị Trinh là ‘chức hiệu’ của nữ chúa Tây quốc .

Thông tin trong nhiều tư liệu lịch sử Việt khiến không khỏi băn khoăn :

- Bà khi ra trận mặc áo giáp vàng (màu).

- Trong “Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca” :


“Đầu voi phất ngọn cờ vàng
Sơn thôn mấy cõi, chiến trường xông pha
Chông gai một cuộc quan hà
Dù khi chiến tử còn là hiển linh".


- Áo vàng – cờ vàng nhưng Rõ hơn hết là những dòng : Khi ra trận bà thường cưỡi voi, chít khăn vàng trên đầu...

Đầu đội khăn vàng ....không là “giặc” Hoàng cân thì là ai ?.

Khẩu hiệu của khởi nghĩa Hoàng cân là “...trời xanh sắp sập , trời vàng nổi lên ...” , vàng là màu biểu trưng của khởi nghĩa khăn vàng tín đồ Thái bình giáo do Trương Giác lãnh đạo .

Bác sĩ Trần đại Sỹ sưu tầm bên Tàu thần thoại khá lý thú về khởi nghĩa Hai bà Trưng ...trong đó hai bà Trưng là công chúa con ngọc hoàng thượng đế bị đày xuống trần còn Lưu Tú vua Đông hãn quốc là Thanh y đồng tử nghĩa là ...thằng nhãi ranh áo xanh , Xanh là màu của phương đông ứng vớí Đông hãn quốc cũng chính là ‘trời xanh ‘ trong khẩu hiệu của Hoàng cân .

Bà Triệu là giặc Hoàng cân bên Tàu...nghe ra không thể chấp nhận được trừ khi Trương Giác chính là Trưng Trắc ...

Lại còn thêm :

Thiên Nam ngữ lục viết về bà Triệu:

Cửu Chân có một nữ nhi
Lẩn thẩn qua kì, tuổi ngoại hai mươi
Chồng con chưa có được nơi
Cao trong tám thước rộng ngoài mười gang
Uy nghi diện mạo đoan trang
Đi đường chớp thét, đồng đường sấm vang
Mặt như vầng nguyệt mới lên
Mắt sáng như đèn má tựa lan gioi
Vú dài ba thước lôi thôi
Ngồi chấm đến đùi, cúi rủ đến chân
Sức quảy được vạc nghìn cân
Chẳng hiềm Mã Viện, hơn phân Lí Thù…


Tới đây qủa là rối rắm lắm rồi ; bà Triệu chít khăn vàng giờ lại thêm ...chẳng hiềm Mã viện danh tướng nhà Đông Hán là sao ?.

Triệu quốc Đạt – Triệu thị Trinh khởi nghĩa năm 246 chống quân Ngô thời Tam quốc cơ mà ? lúc này Mã Viện đã trơ ...xương ngựa ra rồi còn đâu mà hiềm ?.

Qua những thông tin trên có thể khẳng định anh em họ Triệu là bộ tướng của bà Trưng Trắc mà sử Trung quốc gọi là khởi nghĩa khăn vàng do Trương Giác lãnh đạo chống lại ách thống trị của Đông hãn quốc .

Vài dòng Thiên nam ngữ lục viết về Hai bà Trưng ....
Quân của bà Trưng và Mã Viện sau những trận đánh kinh hồn thì Trưng Trắc chủ động đề nghị ngưng chiến nói chuyện :

Mã viện bèn mới bảo rằng.
Nhân sao mi cố hung hăng tranh cường .
Sứ rằng binh có phép thường .
Xem khi động tĩnh mứi nhường sức nhau .
Vậy bằng khiến tôi sang hầu .
Bắc nam bờ cõi cứ đâu đấy làm .
Định kỳ cống thuế cứ năm .
Xưng thần triều cống , vào làm tôi NGÔ .
Viện bèn cắt giới phân cho .
Man thành đắp lũy đấy là Tư minh.
Đồng trụ cắm ở Man thành .
Hán - Trưng hai nước dẫn binh cùng về .
...............
Những vần thơ trên lạ nhất là câu : Xưng thần triều cống , vào làm tôi NGÔ ? , rõ ràng ai cũng biết Trưng vương đánh nhau với quân Đông Hán cơ mà ???...


Thì ra : Đông hãn quốc còn có lúc được người Việt gọi là Ngô ....hèn chi ngày nay còn có tên gọi ‘ngố Tàu’ .

Ngô này là Ngu – ngơ – ngố - ngốc – nghếch cùng hệ với ‘man’ không phải Ngô trong Đông Ngô biến âm của ‘ngay – thẳng’ , vua tôi Đông hãn quốc là người LU biến âm ra Liêu nghĩa là mờ – tối ; dịch tượng chỉ Huyền thiên nay là phương bắc – màu đen xưa là NAM MAN hay nam – mun (mun = đen) vì thế nên vua lập ra Đông Hán gọi là LU -TỐI về sau…‘cạo sửa’ thành ‘Lưu Tú’ nghe cho đỡ xấu hổ ..., Hán quan vũ Lu – Tối chính là ... ‘thằng nhãi ranh áo xanh’ trong thần thoại mà ông Trần đại Sỹ đã sưu tầm ...

Xét như thế anh en họ Triệu khởi binh chống Ngô là nước Đông hán không phải Đông Ngô của Tôn quyền còn về thời gian thì âm lịch cứ 60 quay lại từ đầu , Triệu quốc Đoạt chúa Tây quốc và Triệu thị Trinh khởi nghĩa năm Bính dần 186 chứ không phải Bính dần 246 như vậy khớp đúng với khung thời gian khởi nghĩa khăn vàng 184 - 205 .

Điều nữa phải xem xét suy nghĩ lại là vùng đất Tượng –lâm mà sử Trung quốc gọi là huyện Tượng lâm , trong những bài đã viết trước thường cho đó là chỉ quận Tượng – Vân nam và Lâm là Quảng tây hoặc cũng có thể là chỉ vùng phía tây đất Lâm tức Quảng tây nhưng nay với thông tin về các cuộc khởi nghĩa lập quốc ở vùng này thì thấy Tượng – Lâm chỉ đất Qúy châu –Quảng tây hợp lý hơn , tượng – tịnh chỉ phía tây đồng nghĩa với Qúy – Cửu – Thục , Lâm là biến âm của lam – nam chỉ phía nam tức đất nam giao xưa cũng là bộ nam cương , nước nam cương trong truyền thuyết của người Tày trong bài viết trước .

Năm 190, người Tượng Lâm nổi lên giết thứ sử Chu Phù và chiếm huyện thành.

Năm 192, dân Tượng Lâm giết huyện lệnh tôn Khu Liên lên làm vua lập ra nước Lâm ấp .

Khu Quỳ, Khu Đạt hay Khu Vương lập ra vương quốc Lâm Ấp năm 192. Ngày tháng năm sinh cũng như mất là không rõ, và sử cả Việt và Trung quốc không cho biết thông tin gì về nước Lâm ấp mãi tới năm 270 mới có thông tin cháu ngoại của ông là Phạm Hùng lên làm vương.

Không có nước nào quốc danh là Lâm ấp cả , Lâm ấp chính xác là ‘đại ấp nam’ nghĩa là thủ đô nước Nam , thủ đô Nam Tống nay là Hàng châu cũng gọi là Lâm ấp đã xác nhận suy nghĩ này , vua nước Nam ngoài ai khác là Lý Nam đế ( hậu ) Lý Bí hay Lý phật tử tức Lý Bự cũng chính là nhân vật mà sử Trung quốc gọi là Lưu Bị , Nam đế’ là vua ‘nước Nam’ là điều hiển nhiên khỏi phải bàn .

Nhà Nghiên cứu Bách Việt trùng cửu đã cho biết : theo gia phả họ Phạm thì tổ của họ Phạm là Lý khu Kiên đã lập nước Lâm ấp sau con cháu họ Phạm nối ngôi cai trị mấy trăm năm .

Khu Liên thiết Kiên → Lý khu Kiên và Khu Liên – Khu Đạt là một .

Đạt ↔ Đoạt chỉ phía tây đồng nghĩa với Thục vì bản thân địa danh Tượng - Lâm vừa là Tượng phương tây lại vừa là Lâm đất phương nam nên tùy theo người viết sử chọn từ gọi tắt mà nước trên đất ấy có thể gọi là Thục và cũng có thể gọi là Nam – Lâm .

Việc tìm ra Nước Nam – Lâm ấp cũng chính là nước Tây - Thục đã lấp kín khoảng trống hậu Khu Liên ; Lý Khu Kiên tổ họ Phạm chính là Lý Phật tử – Lý Bự , nước của Khu Liên chính là Tây Thục thành lập từ năm 192 không phải mãi tới năm 221 như sử Tàu viết về nước Thục Hán , từ Tượng – Lâm tức Qúy châu – Quảng Tây Lý Bự đã tiến chiếm Ích châu ở Vân nam ngày nay không phải là Ích châu ở Tứ xuyên như sử Tàu viết , chính như thế Khổng Minh mới có thể dùng ân nghĩa mà thu phục được Mãnh Hoạch khi thủ lãnh người Mường này xâm phạm đất của Thục quốc , sử Trung quốc chọn thời điểm lập quốc Tây Thục năm 221 có lẽ là năm Thục dời đô về Tứ xuyên thể hiện quyết tâm tiến lên phía bắc tranh hùng với nước Ngụy chăng ? .

Năm 263 Ngụy diệt Thục , thực ra Ngụy chỉ chiếm được phía bắc nước Tây Thục hay nước Nam – Lâm , con cháu Lý khu Kiên còn cả giải đất phương nam (ngày nay) thu được từ tay Mãnh Hoạch cho nên nước Nam – Lâm mà sử chép sai là nước Lâm Ấp không hề bị tận diệt mà vẫn tiếp tục tồn tại , trên giải đất tây – nam ( nam = Quảng bình đổ vào nam) Giao chỉ ấy con cháu họ Phạm dòng bên ngoại Lý khu Kiên tiếp nối ngôi vua từ năm 270 như sách sử đã viết .

Đất Giao chỉ thời Tam quốc phía đông thuộc Đông ngô của Tôn Quyền , phía Tây và nam thuộc về Tây Thục của vua Lý Bí – Lý Bự , tới thời trung cổ phía đông thuộc nhà Đường hay Việt thường với Cao Biền nhưng dải phía tây lại thuộc về Nam chiếu hay Nam Châu chính vì thế mới sinh ra người Canh người Mường , người Trại người Chăm .V.V. , Lịch sử Việt nam vừa có vua Lý Bí vừa có Ngô Quyền – Tôn Quyền ....phải từ thời Đông - tây hợp sức khởi nghĩa do Lê Lợi người sinh ở KẺ CHĂM lãnh đạo phá tan quân nhà Minh thu hồi độc lập thì 2 dòng quốc thống mới hoà hợp thành một .

Sử Việt nam hiện nay mắc sai lầm cực lớn hầu như loại bỏ hẳn phần tiếp nối quốc thống của người phía Tây đất nước coi nước Nam Châu – Nam Chiếu do Phùng Hưng - pi lo co (bố cái) kiến lập , ban đầu lãnh thổ là đất 6 chiếu vùng Nhĩ hà (Nhĩ hà là sông Hồng không phải là Nhĩ hải như sử Tàu viết ...trên cao làm gì có biển ? ) không dính gì tới dòng sử chính thống của mình nên hiện vẫn đang tồn tại nhiều vấn đề nhức nhối khiến không thể ăn ngon ngủ yên được .

Nguồn Laclong

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét