HOÀNG HẢI
VÂN(Loạt bài đã đăng trên Thanh Niên từ
27.2 - 5.3.2008)
Kỳ 1
Với những khám phá của ông, chúng ta có đủ tư liệu để dựng lạilịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm trước…
Là một nhà tu
hành xuất gia từ bé, nhưng Thượng tọa Thích Trí Siêu (tức giáo sư tiến sĩ Lê
Mạnh Thát) vẫn để tóc. Thú thật là quá tò mò về chuyện đó, tôi mạnh dạn hỏi ông
vì sao như vậy. Ông cười phá lên, chỉ vào bức ảnh Đức Bồ đề Đạt Ma: "Ông ấy có
cạo đầu đâu! Tôi còn thua ông ấy một bộ râu". Tôi ngộ ra rất nhiều điều trong
tiếng cười của ông.Tôi đã gặp ông nhiều
lần, trước hết là để viết bài về Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc (VESAK) được tổ
chức tại Việt Nam sắp tới mà ông là Chủ tịch Ủy ban quốc tế (IOC) đồng thời là
Tổng thư ký Ủy ban điều phối quốc gia Đại lễ này. Tôi cũng đã đọc nhiều sách ông
viết. Nhưng với trình độ nông cạn của tôi, hiểu về con người cùng sở học mênh
mông vi diệu của vị cao tăng này thật không dễ chút nào.Ông không chỉ là một thiền sư, là nhà khoa học có nhiều
bằng tiến sĩ, thông thạo hơn 15 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Nga, Đức, Nhật, Trung Quốc,
Ấn Độ, Do Thái, Hy Lạp, Ả Rập, Tây Tạng, chữ Phạn, chữ Hán cổ...), ông còn là
một người Việt Nam "nguyên chất" với tất cả lòng tự trọng tự hào về dân tộc
mình, thể hiện một cách lạ lùng ngoạn mục ở tất cả các công trình khoa học của
ông.Trước khi nói về VESAK, tôi xin ghi
lại một vài điều tâm đắc sau khi đọc, sau khi nghe ông nói và hỏi lại thật rõ
những khám phá của ông về cội nguồn dân tộc, về nhiều sự thật của lịch sử nước
nhà hàng ngàn năm bị che lấp hoặc bị hiểu sai lệch.
“Ông Lê Qúy Đôn mà
cũng lôi thôi quá”
Xin chép ở đây
hai bài thơ chữ Hán, theo tôi bài nào cũng hay đến "lạnh cả người":
Nhị bát giai nhân thích tú trì Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì
(Tạm dịch nghĩa:
Người đẹp mười sáu tuổi nhẹ tay thêu trên gấmDưới khóm hoa tử kinh con chim hoàng ly đang chuyền
Thật đáng thương nỗi lòng vô hạn đối với mùa xuân
Ngưng đọng nơi mũi kim, lặng lẽ không nói)Đó là bài Xuân nhật tức sự, được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục và ghi là của thiền sư Huyền Quang thời nhà Trần (1254-1334). Từ đó nhiều thế hệ học giả đã dẫn giải, bình luận, coi là một kiệt tác thi ca chữ Hán của Việt Nam. Trên tạp chí Văn học số 1-1984, lần đầu tiên giáo sư Lê Mạnh Thát đã đưa ra tài liệu chứng minh bài thơ trên không phải của thiền sư Huyền Quang mà của thiền sư Ảo Đường Trung Nhân (?-1203) thời nhà Tống bên Trung Quốc.Một bài khác:Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm
(Tạm dịch nghĩa:
Chim nhạn bay dài qua không trungẢnh chìm dưới dòng sông lạnh
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Sông không có lòng lưu lại bóng hình)Bài thơ này cũng được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục, ghi là của Hương Hải thiền sư thời nhà Lê. Nhưng trong công trình nghiên cứu rất công phu về thiền sư Hương Hải (Toàn tập Minh Châu Hương Hải), giáo sư Lê Mạnh Thát cũng đã “trả" bài thơ này lại cho tác giả thật của nó là thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài bên Trung Quốc thời Tống. Nhưng không chỉ có vậy. Giáo sư Thát còn liệt kê trong số 59 bài thơ được coi là của thiền sư Hương Hải do học trò của thiền sư chép trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, có đến 47 bài không phải của thiền sư. Từ đó, Lê Quý Đôn đã chép lại 43 bài trong Kiến văn tiểu lục, cả 43 bài đều của các thiền sư Trung Quốc. Ông đã chỉ rõ từng bài, là của ai, ở trong tài liệu nào, tờ số mấy. "Ông Lê Quý Đôn mà cũng lôi thôi quá!", ông cười cười nói với tôi. Là ông nói đùa thôi, chứ ông biết rõ Lê Quý Đôn là người rất cẩn trọng. Ông bảo sở dĩ có sai sót này là do Lê Quý Đôn chắc chắn không biết, tức không có dịp đọc các bộ chính sử thiền tông Trung Quốc. "Hơn nữa, Lê Quý Đôn, với tư cách là một Phật tử, có thể đã quá tin tưởng vào bản in Hương Hải thiền sư ngữ lục, nghĩ rằng các thơ kệ và ngữ lục trong đó là đúng của Minh Châu Hương Hải, vì chúng đã được môn đồ của vị thiền sư này cho khắc in, nên đã không tiến hành kiểm tra, tìm hiểu và so sánh", ông viết.Toàn tập Minh Châu Hương Hải là một trong rất nhiều công trình sử học của giáo sư Lê Mạnh Thát. Trong khi sưu tầm, đối chiếu, xác minh và giới thiệu những cống hiến quan trọng về lịch sử tư tưởng, văn học và Phật giáo Việt Nam của vị thiền sư lỗi lạc này, ông đồng thời đã cẩn trọng "trả lại cho người khác" những gì không phải của thiền sư, dù đó là những viên ngọc quý (như bài thơ nói trên). Đối với những nhân vật khác, ông cũng làm tương tự. Ông bảo những nhầm lẫn trong các công trình sử học kiểu đó không những không làm vinh dự thêm cho dân tộc mà còn rất tai hại, nó khiến cho người ta nghi ngờ chính những cống hiến quan trọng của các nhân vật lịch sử nước ta, đặc biệt khi các bậc thức giả nước ngoài tiếp cận những tài liệu này.Dẫn ra chi tiết nhỏ trên đây để thấy sự nghiêm cẩn trong nghiên cứu của giáo sư Lê Mạnh Thát. Nhưng ngoài sự nghiêm cẩn, ông còn có một lợi thế tự nhiên khó có học giả nào có được. Là một thiền sư, ông đã đọc hết những bộ kinh sách đồ sộ như Đại tạng kinh và Tục tạng kinh chữ Hán, ông đọc trước hết là "để thưởng thức". Chính vì vậy mà chẳng hạn như đối với trường hợp hai bài thơ nói trên, ông đã biết đến khi đọc bộ sử thiền tông Trung Quốc (trong Tục tạng kinh), nên khi nghiên cứu về Huyền Quang và Hương Hải ông đã phát hiện ngay sự nhầm lẫn.
Nhị bát giai nhân thích tú trì Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì
(Tạm dịch nghĩa:
Người đẹp mười sáu tuổi nhẹ tay thêu trên gấmDưới khóm hoa tử kinh con chim hoàng ly đang chuyền
Thật đáng thương nỗi lòng vô hạn đối với mùa xuân
Ngưng đọng nơi mũi kim, lặng lẽ không nói)Đó là bài Xuân nhật tức sự, được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục và ghi là của thiền sư Huyền Quang thời nhà Trần (1254-1334). Từ đó nhiều thế hệ học giả đã dẫn giải, bình luận, coi là một kiệt tác thi ca chữ Hán của Việt Nam. Trên tạp chí Văn học số 1-1984, lần đầu tiên giáo sư Lê Mạnh Thát đã đưa ra tài liệu chứng minh bài thơ trên không phải của thiền sư Huyền Quang mà của thiền sư Ảo Đường Trung Nhân (?-1203) thời nhà Tống bên Trung Quốc.Một bài khác:Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm
(Tạm dịch nghĩa:
Chim nhạn bay dài qua không trungẢnh chìm dưới dòng sông lạnh
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Sông không có lòng lưu lại bóng hình)Bài thơ này cũng được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục, ghi là của Hương Hải thiền sư thời nhà Lê. Nhưng trong công trình nghiên cứu rất công phu về thiền sư Hương Hải (Toàn tập Minh Châu Hương Hải), giáo sư Lê Mạnh Thát cũng đã “trả" bài thơ này lại cho tác giả thật của nó là thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài bên Trung Quốc thời Tống. Nhưng không chỉ có vậy. Giáo sư Thát còn liệt kê trong số 59 bài thơ được coi là của thiền sư Hương Hải do học trò của thiền sư chép trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, có đến 47 bài không phải của thiền sư. Từ đó, Lê Quý Đôn đã chép lại 43 bài trong Kiến văn tiểu lục, cả 43 bài đều của các thiền sư Trung Quốc. Ông đã chỉ rõ từng bài, là của ai, ở trong tài liệu nào, tờ số mấy. "Ông Lê Quý Đôn mà cũng lôi thôi quá!", ông cười cười nói với tôi. Là ông nói đùa thôi, chứ ông biết rõ Lê Quý Đôn là người rất cẩn trọng. Ông bảo sở dĩ có sai sót này là do Lê Quý Đôn chắc chắn không biết, tức không có dịp đọc các bộ chính sử thiền tông Trung Quốc. "Hơn nữa, Lê Quý Đôn, với tư cách là một Phật tử, có thể đã quá tin tưởng vào bản in Hương Hải thiền sư ngữ lục, nghĩ rằng các thơ kệ và ngữ lục trong đó là đúng của Minh Châu Hương Hải, vì chúng đã được môn đồ của vị thiền sư này cho khắc in, nên đã không tiến hành kiểm tra, tìm hiểu và so sánh", ông viết.Toàn tập Minh Châu Hương Hải là một trong rất nhiều công trình sử học của giáo sư Lê Mạnh Thát. Trong khi sưu tầm, đối chiếu, xác minh và giới thiệu những cống hiến quan trọng về lịch sử tư tưởng, văn học và Phật giáo Việt Nam của vị thiền sư lỗi lạc này, ông đồng thời đã cẩn trọng "trả lại cho người khác" những gì không phải của thiền sư, dù đó là những viên ngọc quý (như bài thơ nói trên). Đối với những nhân vật khác, ông cũng làm tương tự. Ông bảo những nhầm lẫn trong các công trình sử học kiểu đó không những không làm vinh dự thêm cho dân tộc mà còn rất tai hại, nó khiến cho người ta nghi ngờ chính những cống hiến quan trọng của các nhân vật lịch sử nước ta, đặc biệt khi các bậc thức giả nước ngoài tiếp cận những tài liệu này.Dẫn ra chi tiết nhỏ trên đây để thấy sự nghiêm cẩn trong nghiên cứu của giáo sư Lê Mạnh Thát. Nhưng ngoài sự nghiêm cẩn, ông còn có một lợi thế tự nhiên khó có học giả nào có được. Là một thiền sư, ông đã đọc hết những bộ kinh sách đồ sộ như Đại tạng kinh và Tục tạng kinh chữ Hán, ông đọc trước hết là "để thưởng thức". Chính vì vậy mà chẳng hạn như đối với trường hợp hai bài thơ nói trên, ông đã biết đến khi đọc bộ sử thiền tông Trung Quốc (trong Tục tạng kinh), nên khi nghiên cứu về Huyền Quang và Hương Hải ông đã phát hiện ngay sự nhầm lẫn.
Lịch sử
dân tộc bảo tồn trong kinh Phật
Lục độ tập kinh là một tập kinh quan trọng
trong Đại tạng kinh của Phật giáo thế
giới. Tập kinh này được dịch ra chữ Hán vào thế kỷ thứ 2, truyền bản của nó đến
ngày nay gồm 8 quyển, 91 truyện, trình bày sáu hạnh vượt bờ của Bồ tát gồm bố
thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Các vị cao tăng đông
tây kim cổ đều biết đến tập kinh này và từ lâu nó đã được dịch ra tiếng Pháp và
tiếng Nhật.Lần đầu tiên sau gần hai
ngàn năm lưu truyền của Lục Độ tập kinh,
giáo sư Lê Mạnh Thát có những phát hiện cực kỳ quan trọng từ tập kinh này. Ông
khẳng định tập kinh đó là của Việt Nam, nó được dịch ra chữ Hán từ một bản tiếng
Việt chứ không phải từ bản tiếng Phạn; Tăng Khương Hội, người dịch bản kinh đó,
người mà sử sách cổ Trung Quốc coi là "bậc thánh hiền", là một người Việt Nam
(ít nhất là sinh ra, lớn lên, học hành, theo đạo Phật, hành đạo và trước tác đều
tại Việt Nam). Bằng kiến thức uyên bác về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ, ông đã
truy tận gốc tất cả những tài liệu cổ xưa nhất có liên quan, tiến hành khảo sát,
đối chiếu, giám định và đưa ra một loạt những kết luận với các chứng cứ không
thể phản bác. Ông bảo tập kinh đó chứa đựng "một lượng bất bình thường" các tư
tưởng, quan điểm và đạo lý mang sắc thái chính trị và lịch sử Việt
Nam.Phát hiện đầu tiên là Lục độ tập
kinh chứa đựng truyền thuyết khởi nguồn của dân tộc, đó là chuyện một trăm
trứng. Điều này hết sức có ý nghĩa, là vì truyền thuyết đó được ghi vào sử sách
bắt đầu từ bộ Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên. Truy lùi lại thì thấy
chuyện này được chép trong Lĩnh Nam chích quái. Truy nữa thì "bó tay", không
biết nó xuất phát từ đâu, chỉ thấy nó liên quan tới truyện Liễu Nghi đời...
Đường bên Trung Quốc. Từ trước tới nay mọi bàn cãi đều tập trung vào việc chấp
nhận hay không truyền thuyết đó, mà chấp nhận hay phủ nhận nó không phải là vấn
đề của lịch sử. Dân tộc nào cũng có truyền thuyết khởi nguyên, mà đã là truyền
thuyết thì ít nhiều đều mang yếu tố hoang đường, nhưng đó là hồn thiêng dân tộc.
Với Lục độ tập kinh, chúng ta đã truy ra thời điểm khởi nguồn của hồn thiêng dân
tộc của mình.Trong khi phát hiện truyền
thuyết trăm trứng nằm trong Lục Độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát còn khám phá
một sự thật lịch sử thú vị liên quan đến An Dương Vương và Triệu Đà. Từ truyền
thuyết trăm trứng nằm trong truyện 23 của Lục Độ tập kinh, ông đối chiếu với một
dị bản bằng tiếng Phạn và lại phát hiện truyền thuyết An Dương Vương giống như
câu chuyện về trận đánh quyết định trong anh hùng ca Mahàbhàrata giữa hai anh em
Pandu và Duryodhana. Đối chiếu với tất cả những gì được ghi trong Sử Ký của Tư
Mã Thiên và các tài liệu cổ sử khác của Trung Quốc, ông khẳng định truyền thuyết
An Dương Vương đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 rồi lập nên một triều đại (dưới
ngòi bút của Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư) là không có thật, nó
chẳng qua chỉ là một phiên bản của câu chuyện Mahàbhàrata từ Ấn Độ truyền vào
Việt Nam thời Hùng Vương mà thôi. Ông cũng tiếp tục đối chiếu sử sách và khẳng
định không những không có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương (vì làm gì có An
Dương Vương mà đánh!) mà nước ta cũng không bao giờ bị Triệu Đà chiếm. Nước Nam
Việt của Triệu Đà chưa bao giờ bao hàm nước ta trong đó cả. Có nghĩa là, cho đến
năm 43 (sau dương lịch), trước khi cuộc chiến tranh vệ quốc của Hai Bà Trưng
thất bại, nước ta vẫn là một nước độc lập. Đó là triều đại Hùng Vương, là nhà
nước Hùng Vương. Nhà nước đó đã được xây dựng trên một nền văn hiến với điển
chương riêng của nó, có luật pháp, có chữ viết, có lịch số, có âm nhạc, có văn
học... Nhà nước đó, nền văn hiến đó hoàn toàn không do người Trung Quốc đến
"khai hóa" mà có. Nó có đủ bản lĩnh, đủ sức mạnh để tiếp thu những gì là tinh
hoa và để tự vệ trước âm mưu nô dịch của ngoại bang. Nó có đủ sự nổi trội để
đóng góp vào nền văn minh chung của nhân loại mà Lục Độ tập kinh là một trong
những dẫn chứng sống động. Với những khám phá của ông, chúng ta có đủ tài liệu
để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm
trước...
Kỳ 2
Nếu nói các truyền thuyết An Dương Vương là không có thật thì phải giải đáp như thế nào về Loa thành ? Nếu nói nước ta đến năm 43 vẫn là nước độc lập thì các “thái thú” Tích Quang, Nhâm Diên sang “cai trị’ ở đâu ?
Tất cả những
kết luận của giáo sư Lê Mạnh Thát đều được đưa ra kèm theo sự so sánh đối chiếu
hết sức cẩn thận, kèm theo là các tài liệu dẫn chứng cụ thể có thể tra cứu đến
tận gốc. Rất tiếc giới hạn của một bài báo không cho phép chúng tôi dẫn ra đây,
vì nó quá nhiều. Về vấn đề chúng tôi đang đề cập, có thể xem: Lục độ tập kinh và
lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta - Lê Mạnh Thát, NXB Tổng hợp TP.HCM,
2006.
Làm trong sạch những
trang sử của tổ tiên bờ cõi
Như chúng tôi
đã đề cập, giáo sư Lê Mạnh Thát đề nghị dứt khoát loại bỏ truyền thuyết An Dương
Vương và nước Nam Việt của Triệu Đà ra khỏi lịch sử nước ta. Cần biết, toàn bộ
cơ sở để dựng lên thời kỳ An Dương Vương và Triệu Đà trong lịch sử Việt Nam, bắt
đầu từ Đại Việt sử lược, rồi Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông
giám cương mục... cho đến sử sách ngày nay mà chúng ta biết, là lấy từ 4 tài
liệu cổ sử Trung Quốc, đó là Giao châu ngoại vức ký, Quảng Châu ký, Nam Việt chí
và Nhật Nam truyện. Theo giáo sư Lê Mạnh Thát, trong 4 tài liệu đó, 3 tài liệu
không rõ nguồn gốc và niên đại (chỉ phỏng đoán được đại khái là vào thế kỷ thứ
VI, thứ VII), riêng Nam Việt chí thì có nguồn gốc niên đại rõ ràng (thế kỷ thứ
V), nhưng tất cả đều mơ hồ, mâu thuẫn và không đáng tin cậy. Trong khi đó, căn
cứ vào những tài liệu lịch sử chính thống xưa nhất của Trung Quốc, cụ thể là Sử
ký của Tư Mã Thiên và Tiền Hán thơ, chúng ta hoàn toàn không thấy có chuyện
Triệu Đà đánh An Dương Vương hay tương tự, mà các tài liệu đó còn có những thông
báo xác định rõ ràng là cho đến hết thời Triệu Đà cùng cháu chắt ông ta làm vua
Nam Việt bên đất Trung Quốc, nước ta vẫn đang có vua và đang là một nước độc
lập. Nước ta chưa bao giờ thuộc Nam Việt của Triệu Đà bên Trung Quốc là điều đã
rõ. Vấn đề là xác định đất đai Nam Việt của Triệu Đà đến đâu? Kết luận là: Nước
Nam Việt không bao giờ lan ra khỏi địa phận tỉnh Quảng Đông, một phần tỉnh Hồ
Nam và Quí Châu cũng như Quảng Tây ngày nay. Ông bảo kết luận này cũng không
phải mới. "Tư không Trương Hoa đời Tấn viết Bác vật chí 2 tờ 4b11-12 cũng nói:
"Nước Nam Việt cùng tiếp với Sở, Ngũ lĩnh về trước đến tới Nam hải, là nước tiếp
giáp biển. Đất Giao chỉ gọi là Nam duệ". Viết như thế, Giao chỉ rõ ràng không
thuộc đất Nam Việt. Một khi đã kết luận như vậy, Triệu Đà dĩ nhiên không quan hệ
gì đến nước ta. Phần gọi là "Triệu kỷ" trong các cuốn sử ta từ Đại Việt sử lược
trở đi do thế đáng nên loại bỏ" (sách đã dẫn).Việc dùng những tài liệu không đáng tin cậy để ghi vào
sử sách nước nhà, rồi cứ đinh ninh như vậy cho đến ngày nay, từ Đại Việt sử lược
trở đi, theo giáo sư Lê Mạnh Thát, là do "những người viết sử đã không bao giờ
chịu nghiên cứu và cân nhắc một cách kỹ càng những sử liệu mà họ dùng". Ông cho
rằng, để viết lịch sử nước ta vào những thế kỷ trước và sau công nguyên, phải
dùng "những báo cáo của Sử ký và Tiền Hán thơ như những tài liệu cơ bản cho việc
kiểm soát..., dù biết rằng sự kiện của mọi cuốn sử chính thống Trung Quốc từ Sử
ký trở đi không nên được chúng ta tin cậy hoàn toàn" (như trường hợp về Nhâm
Diên, Tích Quang nói dưới đây và nhiều trường hợp tương tự khác). Tuy nhiên,
theo ông, "nó vẫn có giá trị và đáng tin gấp bội lần" so với những thứ như 4 tài
liệu đã dẫn, bởi vì ngay cả tài liệu có nguồn gốc rõ ràng như Nam Việt chí, nó
cũng xuất hiện sau Sử ký đến những sáu trăm năm (sách đã dẫn).Với những sử liệu đã dẫn, vấn đề An Dương Vương đã rõ là
một phiên bản Việt Nam trong bản anh hùng ca Mahãbhãrata, thế thì xử lý như thế
nào về quan hệ giữa An Dương Vương với thành Cổ loa? Giáo sư Lê Mạnh Thát viết:
"Để trả lời câu hỏi đó, trước hết cần có một ý niệm tổng quát về quá trình hình
thành quan hệ giữa các kỳ quan tự nhiên hay nhân tạo với các nhân vật kỳ vĩ, cụ
thể là chuyện con trâu vàng của Không Lộ với Hồ tây. Không Lộ là vị thiền sư mất
năm 1119, thế mà lại có một kết nối việc hình thành Hồ tây trong truyền thuyết
dân gian như Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh đã ghi lại. Vậy, việc kết
nối An Dương Vương với thành Cổ loa trong truyền thuyết không nhất thiết là một
sự thật lịch sử, dù sau Lĩnh Nam chích quái, một kết nối như thế đã được Ngô Sỹ
Liên đưa vào Đại Việt sử ký toàn thư và khoác cho nó một bộ áo lịch sử chính
thức". Dĩ nhiên triều đại Hùng Vương của chúng ta không thể nào không có thành
quách, nên chắc chắn chúng ta có một cái thành như vậy, nhưng 4 tài liệu đã dẫn
nói về An Dương Vương cũng không nói gì về tên thành Cổ loa, do đó Cổ loa chẳng
qua là một tên gọi được Ngô Sỹ Liên lấy từ truyền thuyết của Lĩnh Nam chích quái
để đưa vào Đại Việt sử ký toàn thư gắn vào An Dương Vương mà
thôi.Như vậy, các triều đại An Dương
Vương và Triệu Đà đã được các sử gia Việt Nam từ Lê Văn Hưu đến Ngô Sỹ Liên dựng
lên từ những tài liệu không đáng tin cậy, kiểm chứng tới đâu thấy sai tới đó.
Nay với những sử liệu tin cậy có thể kiểm chứng được đến tận gốc mà giáo sư Lê
Mạnh Thát đã chỉ ra, chúng ta có đủ cơ sở loại chúng ra khỏi lịch sử, để làm
trong sạch tổ tiên bờ cõi chúng ta. Một người thì tiêu diệt vua Hùng (An Dương
Vương), một người thì chiếm nước ta (Triệu Đà), khi đã có đủ chứng cứ là không
đúng sự thật, thì vinh dự gì mà vẫn để tồn tại trong những trang sử của dân
tộc?Nhưng khi khẳng định nước ta là
nước độc lập cho đến năm Mã Viện đánh bại cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng, thì
giải quyết như thế nào đối với các nhân vật như Tích Quang, Nhâm Diên được coi
là các "thái thú" Trung Quốc cai trị nước ta trước đó? Hai nhân vật này được sử
sách Trung Quốc cho là những người đến "khai hóa" dân tộc ta, bằng những lời lẽ
vô cùng xấc xược, coi dân tộc ta là "mọi", là "cầm thú", là "sâu bọ chồn cáo"
(lời trong Hậu Hán thơ). Bằng những sử liệu khó chối cãi, giáo sư Lê Mạnh Thát
chứng minh Tích Quang, Nhâm Diên chưa bao giờ làm thái thú ở nước ta cả, đó chỉ
là sự "hư cấu lố bịch khôi hài". Lấy thí dụ như Nhâm Diên, Hậu Hán thơ viết ông
này được cử làm thái thú Cửu Chân (nước ta) vào năm Kiến vũ thứ nhất (năm 25 sau
dương lịch), nhưng thời điểm đó cũng theo Hậu Hán thơ, tình hình chính trị Trung
Quốc từ sông Dương Tử về phía nam cực kỳ phức tạp, các tướng mỗi nơi chiếm một
phương, thiên hạ loạn lạc đến nỗi "vua tự đem quân thân chinh mà còn bị cản
đường, xe ngựa không tiến lên được", thì làm sao Nhâm Diên đến được Cửu Chân để
làm thái thú ? Vả lại, chứng cứ đanh thép nhất mà sử gia Lê Mạnh Thát tiếp tục
dẫn ra là, sau khi Mã Viện "chém Trưng Trắc, Trưng Nhị, đưa đầu về Lạc Dương",
Hậu Hán thơ viết: "Viện (Mã Viện) điều tấu Việt luật cùng Hán luật, sai hơn 10
việc, bèn cùng người Việt nói rõ để ước thúc". Như vậy rõ ràng nước ta đã có
luật pháp. Bộ luật đó một chính quyền ngắn ngủi không làm nổi, nó phải là sản
phẩm của một nhà nước độc lập tồn tại từ lâu đời. Nếu nói nước ta lúc đó chỉ là
quận, huyện của Trung Quốc, do các thái thú của Trung Quốc sang cai trị, thì chỗ
đâu để có bộ Việt luật cho Mã Viện điều tấu? Mà nếu có Việt luật, nghĩa là có
một nhà nước độc lập, thì Tích Quang, Nhâm Diên "cai trị" ở đâu?
Kỳ 3
Kỳ 3
Lê Thánh Tông nói : Một tấc đất của
tổ tiên cũng không để mất ! Kèm theo câu nói đó là việc dựng lại Ngọc phả Hùng
Vương
Tiếp tục hành trình
về thời đại Hùng Vương
Cho đến nay,
với nhiều nỗ lực nghiên cứu, các nhà sử học nước ta đã phát hiện rất nhiều tài
liệu quan trọng về nền văn minh của nước ta thời đại Hùng Vương, đặc biệt là đã
thu thập, giám định, phân tích một khối lượng đồ sộ các di chỉ khảo cổ học từ
văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun đến văn hóa Đông Sơn.
Những nỗ lực đó cho phép phác thảo bước đầu diện mạo của thời đại khởi nguồn của
dân tộc, đủ để bác bỏ những mưu đồ phủ nhận hoặc hạ thấp công lao dựng nước của
tổ tiên. Ghi nhớ lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Các vua Hùng có công dựng
nước...", Nhà nước ta đã chính thức quyết định lấy ngày Giỗ tổ Hùng Vương làm
Quốc Giỗ."Sau ngày độc lập, cụ Hồ Chí
Minh rất chính xác khi lấy tên Hùng Vương đặt cho con đường chính giữa thủ đô,
ngang qua Hội trường Ba Đình, đó là điều hết sức có ý nghĩa", giáo sư Lê Mạnh
Thát nói với chúng tôi. Ông lưu ý rằng, không phải ngẫu nhiên mà trong khi Ngọc
phả nhà Lý mất, Ngọc phả nhà Trần mất, Ngọc phả nhà Lê cũng mất thì Ngọc phả
Hùng Vương lại được lưu giữ, hiện còn 3 truyền bản, 2 truyền bản có từ thời Tiền
Lê (Lê Đại Hành) và 1 có từ thời Lê Thánh Tôn. "Lê Đại Hành dựng lại Ngọc phả
Hùng Vương giữa lúc chuẩn bị đánh Tống. Đánh Tống là cuộc kháng chiến chống một
cường quốc chứ không phải chống đội quân lèo tèo như Nam Hán. Lê Thánh Tôn nói:
Một tấc đất của tổ tiên cũng không để mất! Kèm theo câu nói đó là việc dựng lại
Ngọc phả Hùng Vương". Ông nói tiếp: "Giữa lúc người Mỹ tuyên bố đưa Việt Nam trở
về thời kỳ đồ đá thì Việt Nam lại có một cuộc khảo sát lớn nhất về thời đại Hùng
Vương do chính Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ đạo. Giữa cuộc kháng chiến chống Mỹ,
chúng ta đã thực hiện 4 tập sách về thời đại Hùng Vương. Đó là một cuộc nghiên
cứu nghiêm túc nhất từ trước tới nay. Lần đầu tiên chúng ta có một cuộc nghiên
cứu khoa học về thời đại Hùng Vương với quy mô lớn, do Nhà nước chủ trương, chứ
không phải là nghiên cứu lẻ tẻ. Chúng ta thu được những thành quả quan trọng về
khảo cổ học và tập hợp được một số tài liệu chữ Hán giai đoạn đầu. Điều đó rất
có ý nghĩa và cần được tiến hành tiếp tục".Tuy nhiên, rất nhiều vấn đề quan trọng về lịch sử của
thời đại này vẫn đang bị bỏ ngỏ hoặc bế tắc, trong đó có vấn đề chữ viết, luật
pháp cùng những vấn đề căn bản khác của một nhà nước mà chắc chắn là nó phải có
trong thời đại Hùng Vương. Bởi vậy, những khám phá của giáo sư Lê Mạnh Thát có ý
nghĩa vô cùng.Sau khi đưa ra các minh
chứng để đề nghị loại bỏ hai triều đại An Dương Vương và Triệu Đà ra khỏi lịch
sử và xác định thời đại Hùng Vương tồn tại cho đến năm 43, giáo sư Lê Mạnh Thát
tiếp tục phát hiện thêm những tài liệu quan trọng có thể khai thông những bế tắc
từ bấy lâu nay.Việc tồn tại của Việt
luật (mà Mã Viện "điều tấu"), theo giáo sư Lê Mạnh Thát, cho phép chúng ta giả
thiết rằng tiếng nước ta vào thời điểm đó (thời Hai Bà Trưng) đã phát triển đến
một mức độ chính xác nhất định và có một hệ thống chữ viết đủ rõ ràng để ghi
chép các quy định của luật pháp.Vấn đề
là Việt luật hiện nay không còn, điều đó không có gì là lạ, vì chính Hán luật
cũng không còn. Chúng ta cũng chưa tìm được chữ viết trong các di chỉ khảo cổ
học. Điều đó cũng không có gì lạ và chưa tìm được không có nghĩa là nó không có,
bởi ngay đến chữ viết thời Lý - Trần mà vẫn không tìm được trên các di chỉ khảo
cổ học khai quật tại Hà Nội, trừ bia Lý Thường Kiệt và vài tấm bia ít ỏi khác
tìm được ở rất xa ngoài Thăng Long. "Lịch sử Lý - Trần rực rỡ như vậy mà không
còn một tấm bia nào ở thủ đô hết, chúng (nhà Minh) nhất định không để lại một
vết tích nào của lịch sử. Đến nỗi, ông Hoàng Xuân Hãn phải đề nghị một hướng mới
là tìm nó dưới nước, tức là khảo sát dưới hồ Tây", thiền sư Lê Mạnh Thát bức
xúc. Nói thế để thấy kẻ thù thâm độc như thế nào trong mưu đồ triệt hạ văn hóa
của dân tộc ta, triệt hạ tận gốc để dân ta không biết gốc tích của
mình.Truy lại chữ viết của tổ tiên vì
vậy mà trở nên thiên nan vạn nan. Nhưng không phải không có cách. Giáo sư Lê
Mạnh Thát nói đầu thế kỷ trước, người Pháp đã khai quật một ngôi mộ cổ ở Bắc
Ninh, phát hiện một thứ chữ viết trên gốm, "giống chữ Hán nhưng người Hán không
đọc được", nghĩa là một thứ chữ viết theo kiểu Hán nhưng không phải chữ Hán, đó
rất có thể là chữ Việt.Theo ông, chúng
ta hiện có hai nguồn tư liệu cơ bản: Nguồn thứ nhất là Lục độ tập kinh cùng các
dịch phẩm khác của Khương Tăng Hội là Cựu tập thí dụ kinh, An ban thủ ý kinh chú
giải và Tạp thí dụ kinh do một tác giả vô danh thực hiện. Ông đã khảo cứu một
cách công phu tường tận ngữ âm tiếng Việt còn lưu giữ trong những tập kinh này.
Chẳng hạn, để diễn tả ý niệm "trong lòng", Lục độ tập kinh có hai dạng cấu trúc.
Dạng thứ nhất tập trung ở quyển 7 có 7 trường hợp dùng "tâm trung" (cấu trúc ngữ
âm tiếng Trung Quốc), dạng thứ hai có 8 trường hợp rải đều trên 6 quyển dùng từ
"trung tâm" (cấu trúc ngữ âm tiếng Việt). Khảo sát tiếp Kinh Thi do Khổng Tử san
định, trong 305 bài thì có 15 bài dùng "trung tâm". Sau Kinh Thi là Lễ ký do ảnh
hưởng của Kinh Thi có 4 lần sử dụng "trung tâm". Và trong 300 năm đầu sau dương
lịch, dạng "trung tâm" hầu như không được các học giả Trung Quốc dùng tới, nếu
có vài trường hợp thì đều là ở dạng trích từ Kinh Thi hoặc nhái theo Kinh Thi mà
thôi. Thế mà Lục độ tập kinh, với 91 truyện, có 8 lần sử dụng cấu trúc đó, tỷ lệ
gần 1/10, cao hơn nhiều so với Kinh Thi (15/305). Trong 7 lần sử dụng dạng "tâm
trung", có khả năng ban đầu cũng dùng dạng "trung tâm", sau bị điều chỉnh lại,
là do nó chỉ tập trung trong quyển 7, là quyển chủ yếu trình bày về thiền, chắc
chắn do nhu cầu tìm hiểu về thiền nên nó được lưu hành rộng rãi qua nhiều tay
người đọc Trung Quốc và quá trình đó đã được nhuận sắc cho đến khi được khắc bản
vào năm 927, trong khi cấu trúc dạng "trung tâm" tiếp tục tồn tại trong các
quyển kia của Lục độ kinh. Trong Lục độ kinh còn có một số cấu trúc ngữ âm tương
tự, ví dụ như cấu trúc "thần thọ" có nghĩa là "thần cây" chứ không phải "cây
thần" như tiếng Trung Quốc...
Kỳ 4
"Bộ Việt luật còn đó. Bài Việt ca còn đó. Truyện trăm
trứng còn đó... Thế mà cứ nhắm mắt nói càn nước ta thành ra nước văn hiến từ Sỹ
Vương. Thật khốn nạn hết chỗ nói !" (Thiền sư Lê Mạnh
Thát).
Thiền sư nổi giận
Ngoài việc phát hiện việc Lục độ tập kinh chữ Hán "không
chấp hành" nguyên tắc ngữ âm tiếng Trung Quốc như trường hợp cấu trúc "trung
tâm", trong khi dịch tập kinh này ra tiếng Việt hiện nay, giáo sư Lê Mạnh Thát
còn phát hiện các trường hợp Khương Tăng Hội dùng "tá âm" hoặc dùng thuần túy
tiếng Việt, chỉ phiên âm ra nó lập tức biến thành những câu tiếng Việt dễ hiểu.
Ông lưu ý do Khương Tăng Hội "sinh ra, lớn lên và đào tạo thành tài ở nước ta"
cho nên khi phiên dịch và trước tác dứt khoát không thể nào không chịu ảnh hưởng
của tiếng Việt trên cả ba mặt ngữ vựng, ngữ pháp và cú pháp, song Khương Tăng
Hội lại là người sử dụng tiếng Trung Quốc tới mức "nhuần nhuyễn của một diệu
thủ" thì lẽ ra những ảnh hưởng đó phải bị hạn chế tối đa, thế thì tại sao Lục độ
tập kinh tồn tại nặng nề và sâu đậm đến vậy những "tàn dư" của ngữ vựng, ngữ
pháp và cú pháp tiếng Việt ? Chỉ có thể giải thích là tập kinh đó đã được dịch
ra chữ Hán bằng một nguyên bản tiếng Việt.Tôi hỏi giáo sư Lê Mạnh Thát: "Khi đối chiếu cấu trúc
"trung tâm" trong Lục độ tập kinh chữ Hán với ngôn ngữ của Trung Quốc, thầy viết
rằng, "kiểm soát toàn bộ văn liệu" tiếng Trung Quốc (do người Trung Quốc viết)
từ đầu thế kỷ thứ I sau dương lịch trở về sau cho đến thế kỷ thứ III, trong
khoảng thời gian 300 năm, cấu trúc "trung tâm" chỉ được dùng đúng 3 lần, trong
khi cấu trúc này được dùng phổ biến trong Lục độ tập kinh. Nói như vậy có nghĩa
là để đối chiếu chỉ hai chữ "trung tâm", thầy đã phải đọc hết tất cả của Trung
Quốc trong 3 thế kỷ?". Ông bảo: "Đúng vậy. Không đọc hết thì làm sao mà khảo
sát, đối chiếu được!". Liên quan đến tiếng Việt trong Lục độ tập kinh, ông còn
chỉ ra một nguồn tài liệu quan trọng thứ hai. Đó là sách Thuyết Uyển của Lưu
Hướng, tồn tại từ năm 16 trước dương lịch mà "không có nhà nho nào là không
biết". Đây là bộ sách duy nhất chép lại nguyên văn một tác phẩm văn học khác với
tiếng Trung Quốc, đó là bài Việt ca. Thuyết Uyển không phải là một cuốn sách
thường, nó là cuốn sách được viết để "dâng vua", cho nên tài liệu được nó sử
dụng phải là những tài liệu được kiểm chứng, trong đó có tài liệu lấy từ "Trung
thư", tức là một loại thư viện của hoàng gia. Điểm hết sức thú vị của bài Việt
ca chép trong Thuyết Uyển là nó "ghi bằng chữ Hán mà người Hán không đọc được",
phải "dịch ra tiếng Sở", tức là kèm theo một bản dịch tiếng Trung Quốc. Dù Lưu
Hướng nói rõ đó là bài ca "do người Việt ôm mái chèo mà ca", nhưng hơn hai ngàn
năm nay chưa một ai nghiên cứu giải mã bài ca này, ngoài sự cố gắng tìm hiểu của
Quách Mạt Nhược (từng là Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc) cho rằng bài
ca này là của người Choang vùng Quảng Tây Trung Quốc ngày nay, và một học giả
người Nhật cho bài ca đó là của... Chiêm Thành. Giáo sư Lê Mạnh Thát đã dành
nhiều thời gian, thông qua nhiều tài liệu để giải mã và bước đầu phục chế diện
mạo tiếng Việt của bài Việt ca này (xem Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguồn
của dân tộc ta, chương IV, sđd, và Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát,
NXB Tổng hợp TPHCM, trang 41-47).Như đã
nói, mỗi lần tràn sang là mỗi lần kẻ xâm lược hủy diệt một cách tàn độc tất cả
những gì có thể để cho văn hóa được lưu truyền, đặc biệt là việc tận diệt bia đá
một cách có hệ thống sau khi "thu gom" hết sách vở, nhưng với những gì còn lưu
lại của bốn ngàn năm văn hiến và những nỗ lực mới nhất của những nhà khoa học
đầy tâm huyết và trách nhiệm với tổ tiên như Lê Mạnh Thát, chúng ta có cơ sở để
khẳng định chắc chắn là chúng ta đã có chữ viết từ thuở các vua Hùng. Kẻ xâm
lược quyết không cho người Việt biết đến "mặt chữ" của tổ tiên, nhưng dấu tích
nó vẫn còn đó: trong kinh Phật, trong chính sách vở của Trung Quốc và còn lẩn
khuất ở đâu đó nữa. Cùng với việc khảo sát trong lòng đất và "dưới nước" như
hướng mà giáo sư Hoàng Xuân Hãn đề nghị, hướng nghiên cứu của giáo sư Lê Mạnh
Thát rất cần được sự đồng hành, phối hợp của nhiều nhà sử học
khác.Tôi hỏi ông: "Thầy nghĩ gì về ý
kiến cho rằng có thể tìm vết tích chữ viết thời Hùng Vương trên mặt trống
đồng?". Ông nói: "Có giả thiết như vậy, nhưng khảo sát những hoa văn trên trống
đồng chúng ta không thấy chúng có liên quan đến chữ viết, vì chữ viết phải có
quy luật về cấu trúc của nó. Suy đoán từ những giả định không có cơ sở sẽ khó có
sức thuyết phục". Việc nghiên cứu ngôn ngữ cổ, nhất là ngữ âm cổ rất phức tạp.
Chẳng hạn người Trung Quốc cũng như người Việt 2.000 năm trước phát âm như thế
nào ngày nay chúng ta không biết được, để nghiên cứu nó giáo sư Lê Mạnh Thát đã
phải dùng hệ phát âm tiếng Trung Quốc thời Hán của Karlgren, là công cụ mà các
nhà Hán học đều thống nhất, rồi đối chiếu với những tài liệu đánh dấu sự biến
đổi ngôn ngữ để truy lùi về thời điểm nghiên cứu, và cũng bằng phương pháp tương
tự, ông đối chiếu những mối liên hệ giữa tiếng Trung Quốc, tiếng Việt và các
loại ngôn ngữ khác trong vùng (chữ Phạn, Chăm, Khmer, tiếng nói các dân tộc
Trung Quốc giáp giới với Việt Nam...) để phác thảo diện mạo tiếng Việt của bài
Việt ca, bác bỏ kết luận sai trái của Quách Mạt Nhược và học giả người Nhật nói
trên... (bạn đọc muốn tìm hiểu sâu hơn, xin xem các sách đã
dẫn).Tiếp theo và cùng với chữ viết là
lịch pháp. Lâu nay chưa ai biết dân tộc ta thời đại Hùng Vương sắp xếp ngày
tháng như thế nào. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn từng đoán: "Văn hóa Trống đồng của
nước Văn Lang chắc đã dùng năm 12 tháng, tháng lần lượt 29-30 ngày cũng không
hẳn là vô lý" (Lịch và lịch Việt Nam, Tập san Khoa học xã hội, Paris, 1982,
trích từ Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, NXB Tổng hợp TP.HCM
2006, trang 71). Nay những phát hiện trong Lục độ tập kinh cho phép khẳng định
được lời đoán của giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Những câu chuyện ghi trong tập kinh
này cho thấy, nước ta thời Hùng Vương đã dùng hệ thống lịch chia năm ra 360
ngày, phân bổ thành 4 mùa, mỗi mùa có 3 tháng và đã dùng đơn vị tuần, mỗi tuần 7
ngày. Đối chiếu với những tài liệu cổ Trung Quốc thì thấy hệ thống lịch nước ta
khác với lịch Trung Quốc cùng thời, vì lịch Trung Quốc thời đó mỗi năm 366 ngày
và một đơn vị tuần của họ có tới 10 ngày. Nó cũng không giống Ấn Độ, vì tuần của
Ấn Độ thời đó có 15 ngày. Phát hiện này cho phép kết luận nước ta thời Hùng
Vương đã có lịch pháp riêng của một nhà nước độc lập. Giáo sư Lê Mạnh Thát cho
rằng, để bảo lưu được một hệ thống lịch pháp như thế, các câu chuyện trong Lục
độ tập kinh chắc chắn phải được lưu truyền "vào thời hệ thống lịch đó còn hiệu
lực", tức là từ năm 43 trở về trước, bởi vì sau năm đó nhà Hán đã chiếm nước ta,
một sự bảo lưu như thế dứt khoát không thể nào xảy ra dưới bộ máy đàn áp của Mã
Viện...Những kết luận của giáo sư Lê
Mạnh Thát có thể và cần được các nhà sử học tiếp tục bổ sung, nhưng không có gì
thái quá khi nói rằng với phát hiện đó trên nền tảng những thành quả quan trọng
trong cuộc nghiên cứu lớn về thời Hùng Vương trong thời gian chống Mỹ, chúng ta
có thể và phải dựng lại lịch sử thời đại Hùng Vương với những sự thật của nó. Nó
một lần nữa chứng minh việc Nhà nước ta lấy ngày giỗ tổ Hùng Vương làm Quốc Giỗ
là vô cùng đúng đắn.Là nhà tu hành
nhưng thiền sư Lê Mạnh Thát đã không kìm nén tức giận khi thấy người ta "thóa mạ
làm nhục tổ tiên mình với kiểu ăn nói của Ngô Sỹ Liên: Nước ta hiểu thi, thơ,
tập Lễ Nhạc thành ra nước văn hiến, bắt đầu từ Sỹ Vương. Bộ Việt luật còn đó.
Bài Việt ca còn đó. Truyện trăm trứng còn đó... Thế mà cứ nhắm mắt nói càn nước
ta thành ra nước văn hiến từ Sỹ Vương. Thật khốn nạn hết chỗ nói!". Sự nổi giận
của vị thiền sư này rất cần được sự hưởng ứng của tất cả những ai còn coi mình
là con cháu Lạc Hồng...
Kỳ 5
Không có cái gọi là thời kỳ “Bắc
thuộc lần thứ nhất”. Việc lập 9 quận, trong đó có Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam
thuộc Hán chỉ là sự “đọat khống” đất đai nhằm thỏa mãn não trạng và ao ước bành
trướng của nhà Hán mà thôi.
Nhà Hán đọat khống
đất đai nước ta
- Nếu nước ta
thời Hùng Vương vẫn là một nước độc lập kéo dài cho đến năm 43, nghĩa là giai
đoạn “Bắc thuộc lần thứ nhất” không tồn tại? - Tôi hỏi giáo sư Lê Mạnh
Thát.- Đúng vậy. Phải loại phần đó ra
khỏi lịch sử. Chúng ta có đủ chứng cứ để làm như vậy.- Nhưng sử sách vẫn còn ghi: năm 214 trước công nguyên,
Tần Thủy Hoàng đem quân đánh lấy đất Bách Việt, sau đó chia làm ba quận: Nam
Hải, Quế Lâm và Tượng Quận mà Tượng Quận là nước ta?- Nam Hải, Quế Lâm ngày nay nằm trong hai tỉnh Quảng
Đông và Quý Châu Trung Quốc thì đã rõ rồi, nhưng Tượng Quận thì không phải. Một
số tài liệu Trung Quốc có chép một cách lầm lạc rằng nó là Nhật Nam (nước ta)
sau này, nhưng đối chiếu với những tài liệu tin cậy cũng của chính Trung Quốc,
từ rất sớm người ta đã biết Tượng Quận nằm giữa hai quận Uất Lâm và Tường Kha
của Trung Quốc chứ không phải nước ta.-
Sử Trung Quốc cũng ghi rõ, năm 111 trước công nguyên, Hán Vũ đế đã chiếm nước
Nam Việt của Triệu Đà và đặt 9 quận: Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao
Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai và Đàm Nhĩ thuộc Hán. Nếu cho đến năm 43 nước
ta vẫn độc lập thì giải thích làm sao việc nước ta gồm ba quận Giao Chỉ, Cửu
Chân, Nhật Nam nằm trong đất nhà Hán trước đó?- Đối chiếu với chính sử Trung Quốc ta đã thấy Triệu Đà
chưa bao giờ chiếm Tây Âu lạc cả và Hán Vũ đế cũng chỉ chiếm Nam Việt của Triệu
Đà. Rõ ràng là họ đã gom Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam vào đất Hán một cách vô
căn cứ. Việc này không có gì lạ, sử Trung Quốc còn chép rằng năm 202 (trước CN)
Hán Cao tổ Lưu Bang, ông cố của Hán Vũ đế lấy các đất Tượng Quận, Quế Lâm, Nam
Hải của Triệu Đà phong cho Ngô Nhuế, nhưng ba nơi đó là của Triệu Đà. "Đà chưa
hàng, xa đoạt khống, lấy phong cho Nhuế vậy". Đất chưa lấy được mà "đoạt khống"
làm đất của mình, chuyện đó là bình thường, không chỉ Lưu Bang mà trở thành thói
quen cho các triều đại về sau này nữa... Bởi vậy việc "đoạt khống" ba quận Giao
Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam của ta không có gì lạ. Việc "đoạt khống" này có ba
chứng cứ: Thứ nhất, Tiền Hán thơ ghi rõ rằng Thứ sử Giao Chỉ "đóng ở Thương
Ngô", nghĩa là quân Hán chưa bao giờ đặt chân tới Giao Chỉ. Thứ hai, sử liệu
Trung Quốc cũng cho thấy, việc đưa những người phạm tội đi đày thời đó chỉ đưa
tới Hợp Phố chứ không hề thấy đưa đi xa hơn, tuy chưa phải là chứng cứ quyết
định, nhưng cũng biểu thị rằng biên cương cực nam của nhà Hán chưa qua khỏi Hợp
Phố, là vùng giáp giới với nước ta. Chứng cứ thứ ba là việc sử liệu Trung Quốc
ghi "Phiên Ngung là một đô hội", đây là chi tiết khá khác thường, bởi Tiền Hán
thơ đưa ra con số thống kê nhân khẩu cho thấy quận Nam Hải có 6 huyện chỉ vỏn
vẹn có 94.253 dân, bình quân mỗi huyện, trong đó có Phiên Ngung, có trên dưới 15
ngàn dân, trong khi số dân Giao Chỉ 10 huyện số dân lên tới 764.237 người, bình
quân mỗi huyện trên 75 ngàn dân, gần bằng số dân của cả Nam Hải. Đó là chưa kể
Cửu Chân và Nhật Nam, dân số cộng lại cũng có trên 200.000 người. Thế mà lại nói
"Phiên Ngung là một đô hội". Điều không hợp lý này chỉ có thể được giải thích là
3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam trong thực tế không thuộc đất Hán. Có thể
hỏi tại sao ba quận này không phải của nhà Hán mà nhà Hán lại có số liệu về "hộ
khẩu", câu trả lời cũng thật đơn giản: Đọc trong Tiền Hán thơ, ta có thể bắt gặp
một loạt tên các quốc gia độc lập ở Trung Á, chưa bao giờ "thuộc Hán", nhưng vẫn
có số liệu hộ khẩu như thường. Cho nên, nhà Hán có số liệu về hộ khẩu không nhất
thiết nó thuộc nhà Hán.Dù là Âu Lạc,
Tây Âu, Tây Âu Lạc, Tây Vu, Việt Thường Thị hay Giao Chỉ - Cửu Chân - Nhật Nam,
cũng đều là những tên gọi khác nhau của nước ta. Cần biết, các triều đại phong
kiến Trung Quốc không bao giờ muốn nước ta độc lập cả, ngay cả khi nước ta có
quốc hiệu đàng hoàng như Vạn Xuân (Lý Nam Đế), Đại Cồ Việt (Đinh Tiên Hoàng) hay
Đại Việt (Lý-Trần), sử sách Trung Quốc vẫn tiếp tục dùng những cái tên Giao Chỉ,
An Nam để gọi một cách tùy tiện. Việc "đoạt khống" đất đai, theo giáo sư Lê Mạnh
Thát, là "nhằm thỏa mãn não trạng và ao ước bành trướng" của họ.Trao đổi với chúng tôi, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng
chỉ riêng văn minh trống đồng thôi mà chúng ta đã có chứng cứ rành rành. Với một
nền khoa học kỹ thuật phát triển rất cao thời đó như vậy, một nền kỹ thuật không
ai có thể chối cãi, thì không có lý gì mà chúng ta lại không có một nền văn hóa
- giáo dục tương ứng.Nền văn hóa đó vẫn
được bảo tồn. Trung Quốc có Thi Thơ Lễ Nhạc. "Nếu nói Thi chúng ta có cùng chùm
truyện trong Lục độ tập kinh, Cựu tạp thí dụ kinh và bài Việt ca. Nếu nói Thơ
chúng ta có truyền thuyết trăm trứng. Nếu nói Lễ chúng ta có bộ Việt luật. Nếu
nói Nhạc ta không chỉ có bài Việt ca mà còn có trống đồng...". Nói thêm về văn
học, ông cho rằng "nền văn học thành văn của dân tộc ta không phải bắt đầu từ
Trần Nhân Tông và Nguyễn Trãi, hay Khuông Việt và Từ Đạo Hạnh... mà nó đã bắt
đầu từ thời Hùng Vương mà bằng chứng còn lại là bài Việt ca, cụm chuyện thần
thoại và cổ tích đầu tiên tìm thấy trong Lục độ tập kinh. Phân tích trong Lục độ
tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát chỉ ra 5 truyện trong tập kinh này tương đương
với 5 truyện cổ tích do Nguyễn Đổng Chi tập hợp trong Kho tàng truyện cổ tích
Việt Nam, như vậy "chúng ta không còn bàn cãi một cách tùy tiện không có cơ sở
về nền văn học "dân gian" chung chung phi thời gian, phi lịch
sử".Như vậy là từ thời Hùng Vương chúng
ta đã có một nền văn hóa riêng, tạo nên bản lĩnh dân tộc. Đó là nền tảng cho
những cuộc đấu tranh trường kỳ, khốc liệt bảo vệ đất nước, bảo vệ nòi giống. Dân
tộc ta không những không bị đồng hóa, mà nền văn hóa của dân tộc ta còn được du
nhập vào văn hóa Trung Quốc mà Lục độ tập kinh - không chỉ là kinh Phật mà còn
là tác phẩm của "bậc thánh hiền" như chính người Trung Quốc gọi - là một trong
những ví dụ.Nhưng không chỉ có vậy.
Theo giáo sư Lê Mạnh Thát, từ sau khi Mã Viện đánh bại Hai Bà Trưng cho đến khi
Chu Phù, Sỹ Nhiếp cai trị nước ta, lịch sử cũng có nhiều vấn đề cần đặt lại. Và
trong thời gian này xuất hiện một nhân vật lớn là Mâu Tử, một người Việt Nam,
với tác phẩm nổi tiếng Lý hoặc Luận được lưu truyền trong nền văn hóa điển
chương Trung Quốc, một bằng chứng hùng hồn về sự nổi trội của văn hóa Việt
Nam...
Kỳ 6
"Giá như người nước ta không ghi lại
những sự việc của Lê Hoàn (Hoàng đế Đại Hành) và chúng ta phải nghiên cứu qua tư
liệu của người Trung Quốc, thì một đoán án đương nhiên phải xảy ra , đó là Lê
Hoàn không xưng đế xưng vương hay đặt quốc hiệu lập xã tắc gì hết, ngược lại chỉ
là một Tiết độ sứ, một quan chức của nhà Tống” (thiền sư Lê Mạnh
Thát)
Sỹ Nhiếp là ai
?
Có
thể có ai đó trong giới sử học "ý kiến ra ý kiến vào" về những phát hiện của
giáo sư Lê Mạnh Thát mà chúng tôi đang giới thiệu một phần hết sức tóm lược.
Mong rằng những người quan tâm có thể tìm đọc các công trình của ông để trao đổi
học thuật. Chúng tôi xin lưu ý, những gì mà chúng tôi giới thiệu ở đây, giáo sư
Lê Mạnh Thát đã công bố từ cách đây trên dưới 40 năm, nay được in lại trong hai
bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam (tập 1) và Lịch sử Phật giáo Việt Nam
(tập 1), đều do NXB Tổng hợp TP.HCM phát hành năm 2006, ngoài sách Lục độ tập
kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta mà chúng tôi đã dẫn. Trong những công
trình này, mỗi một vấn đề đưa ra ông đều dẫn kèm theo tất cả các tài liệu có
liên quan bằng những ngôn ngữ gốc. Những tài liệu đó được ông giới thiệu cụ thể,
chỉ rõ số trang, số tờ, nơi ấn hành hoặc lưu trữ, nếu ai nghi ngờ thì có thể tra
tận gốc, bằng tiếng Việt, chữ Hán cổ và chữ Trung Quốc hiện nay, cùng tiếng Anh,
tiếng Pháp, tiếng Nhật, chữ Phạn cổ...Ông dẫn việc nhà Tống với Lê Hoàn như trên để nói rằng
những sử liệu từ Trung Quốc là "không hoàn toàn đáng tin cậy", ví dụ như chính
sử Trung Quốc ghi nhiều thứ sử Giao Châu (nước ta) nhưng thực tế những người đó
chỉ được "phong khống" chứ chưa bao giờ bước chân qua nước ta. Việc nghiên cứu
lịch sử nước nhà phải sử dụng tất cả những tài liệu của tổ tiên ta để lại, rồi
đối chiếu với chính sử Trung Quốc để thẩm định, xác minh tìm ra sự thật. Cho
nên, mỗi một cuộc truy tìm, mỗi một phát hiện được tài liệu của tổ tiên đều
khiến cho lịch sử nước nhà trở nên sáng rõ.Ông bảo nói "một ngàn năm đô hộ giặc Tàu" như lời bài
hát của Trịnh Công Sơn là cách nói đau buồn mà không chính xác. Cuộc đấu tranh
của dân tộc ta từ sau khi cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng thất bại chưa bao
giờ ngưng nghỉ. Bởi chưa đầy 60 năm sau, cuộc khởi nghĩa Tượng Lâm lần thứ nhất
đã nổ ra vào năm 100, dẫn tới việc người anh hùng Khu Liên lập khu tự do vào năm
138, làm hậu phương cho các cuộc khởi nghĩa về sau, cho đến thời Chu Phù, Sỹ
Nhiếp. Thực chất trong hơn 150 năm bị các thái thú Trung Quốc đến đô hộ, chúng
ta "mất nước chứ không mất hạnh", nghĩa là dân tộc vẫn còn, nền văn hóa dân tộc
được xây dựng từ thời Hùng Vương vẫn được bảo tồn và phát triển. Sự quật cường
của dân tộc chính người Trung Quốc cũng phải thừa nhận: "Trưởng lại đặt ra, tuy
có cũng như không".Có một nhân vật lạ
lùng trong lịch sử nước ta, đó là Sỹ Nhiếp. Cả sử Trung Quốc và sử ta đều nói
ông là thái thú Giao Chỉ (sau đổi thành Giao Châu). Tuy là một "thái thú" đến
cai trị, nhưng các sử gia Việt Nam đều dành những lời lẽ mến mộ khi nói về Sỹ
Nhiếp. Lê Văn Hưu viết: "Sỹ Vương biết lấy khoan hậu khiêm tốn để kính trọng kẻ
sĩ, được người thân yêu mà đạt đến thịnh một thời". Ngô Sỹ Liên cũng vậy. Trần
Trọng Kim thì viết: "Sỹ Nhiếp trị dân có phép tắc, và lại chăm sự dạy bảo dân
cho nên lòng người cảm mộ công đức, mới gọi tên là Sỹ Vương". Khi nhân dân gọi
Sỹ Nhiếp là "Sỹ Vương", tức là vua của mình, còn có lý do nào nữa không
?Phần trước chúng tôi có nêu sự "nổi
giận" của giáo sư Lê Mạnh Thát khi trích lời Ngô Sỹ Liên "Nước ta hiểu thi thơ,
tập Lễ Nhạc thành ra nước văn hiến, bắt đầu từ Sỹ Vương", cần nói rõ là ông bất
bình với việc cho rằng nước ta hiểu thi thơ, tập Lễ Nhạc mới thành ra nước văn
hiến, chứ hoàn toàn không xem thường Sỹ Nhiếp. Cũng như Trần Trọng Kim viết:
"Nhà làm sử thường cho nước ta có văn học là khởi đầu từ Sỹ Nhiếp. Cái ý kiến ấy
có lẽ không phải" (Việt Nam sử lược).Đưa ra nhiều tài liệu dẫn chứng, giáo sư Lê Mạnh Thát
cho rằng, trong thực tế chính quyền Sỹ Nhiếp (từ 187), cũng như trước đó là Chu
Phù (khoảng 180), là "chính quyền Việt Nam độc lập". Sử Trung Quốc chép rõ Chu
Phù "vứt điển huấn tiền thánh, bỏ pháp luật Hán gia". Còn đối với Sỹ Nhiếp, sử
Trung Quốc (Ngô chí) viết rằng: "(Sỹ Nhiếp) tổ tiên vốn người Mấn Dương nước Lỗ,
đến loạn Vương Mãng tỵ nạn Giao Châu, tới Nhiếp là sáu đời". Ông cho rằng một
người có tổ tiên 6 đời ở Việt Nam thì đã "Việt Nam hóa", trở thành người Việt
Nam rồi. Cũng theo Ngô chí: "Sỹ phủ quân (Sỹ Nhiếp) của Giao Chỉ học vấn đã ưu
bác, lại thành công về chính trị, ở trong đại loạn, bảo toàn một quận hơn 20
năm, cương trường vô sự, dân không thất nghiệp, những bọn lệ thuộc đều được nhờ
ân"; "Anh em Nhiếp đều là người hùng các quận, làm tướng một châu, riêng ở vạn
lý, uy tôn vô thượng. Ra vào đánh chuông khánh, đầy đủ uy nghi, kèn sáo cổ xuy,
xe ngựa đầy đường. Người Hồ theo sát đốt hương, thường có mấy mươi. Thê thiếp đi
xe màn, tử đệ theo lính kỵ. Đương thời quý trọng, chấn phục trăm mọi. Úy Đà cũng
không đủ hơn". Từ tài liệu trên, theo giáo sư Lê Mạnh Thát: "Sỹ Nhiếp dẫu được
đào tạo trong khuôn mẫu Trung Quốc, đã có những hành vi xa lạ với phong tục tập
quán Trung Quốc. Nói rõ ra, ông đã được Việt hóa. Việc Ngô chí so sánh Sỹ Nhiếp
với Triệu Đà cho thấy nền cai trị nước ta thời bấy giờ độc lập tới mức nào. Thực
tế có thể nói chính quyền độc lập đầu tiên sau chính quyền Hai Bà Trưng là chính
quyền Chu Phù - Sỹ Nhiếp". Theo ông, dưới thời Sỹ Nhiếp, nước ta đã có một nền
nông nghiệp rất phát triển. "Lúa Giao Chỉ mùa hè chín, nông dân một năm trồng
hai lần" (theo Kinh Dương dĩ nam dị vật chí). "Một năm tám lứa kén tằm đến từ
Nhật Nam" (Văn tuyển 5 tờ 9b4). "Nhiếp mỗi khi sai sứ đến Quyền đều dâng tạp
hương, vải mỏng thường tới số ngàn. Món quý minh châu, sò lớn, lưu ly, lông thú,
đồi mồi, sừng tê, ngà voi, các thứ vật lạ quả kỳ như chuối, dừa, long nhãn,
không năm nào không đưa đến" (Ngô chí 4 tờ 8b1-3 nói về những cống vật mà Sỹ
Nhiếp gửi đến Tôn Quyền).Giáo sư Lê
Mạnh Thát dẫn giải tiếp: Sau khi Sỹ Nhiếp chết (226), lúc ấy Tôn Quyền đã chiếm
cứ phía Nam Trung Quốc để tranh hùng với Tào Tháo và Lưu Bị, nên nhân cái chết
của Sỹ Nhiếp tiến hành thôn tính nước ta, lúc đó "là một nước độc lập dựa trên
điển huấn và pháp luật của người Việt". Con Sỹ Nhiếp là Sỹ Huy nối nghiệp cha,
chống lại Tôn Quyền, tuy nhiên do mất cảnh giác, nên đã thất bại, Sỹ Huy bị bắt
và bị giết, Tôn Quyền chiếm nước ta. Nhưng do bị chống đối quyết liệt, nền cai
trị của Tôn Quyền không bền vững và không lâu dài, vì chỉ 18 năm sau, Triệu Thị
Trinh (Bà Triệu) cùng anh là Triệu Quốc Đạt nổi lên khởi nghĩa giành lại chính
quyền.Về sự kiện Bà Triệu khởi nghĩa,
giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng đây là cuộc "khởi nghĩa thành công". Ông viết:
"Tôn Quyền sai Lục Dận làm An nam hiệu úy và thương thảo với quân khởi nghĩa
bằng ấn tín và tiền của. Đây là lối đánh dẹp khá lạ kỳ, hiếm thấy trong lịch sử
Trung Quốc đối với nước ta. Và cuối cùng Lục Dận cũng có thể báo cáo là đã "dẹp
yên được giặc Giao Chỉ" và được phong làm thứ sử Giao Châu. Nhưng châu trị của
Giao Châu lần này không phải ở nước ta, mà phải ở Quảng Châu, vì nó ngó ra biển
(lâm hải), như bài biểu của Hoa Thạch trong Ngô chí tờ 10b3 đã ghi nhận. Nói
cách khác, nước ta từ năm 248 tiếp tục là một nước độc lập và Bà Triệu tiếp tục
đứng đầu đất nước, cho đến khi Tôn Hựu sai Đặng Tuân (Ngụy chí 4 tờ 27a3 viết là
Đặng Cú) đến Giao Chỉ vào năm 257, ra lịnh cho thái thú Giao Chỉ bắt dân đưa lên
Kiến Nghiệp làm lính. Và như Thiên Nam ngữ lục đã ghi nhận là Bà Triệu đã bị tử
trận trong một cuộc chiến đấu với chính Đặng Tuân sau khi đã tiêu diệt Lục Dận
(...). Những mô tả này (trong Thiên Nam ngữ lục) hoàn toàn phù hợp với tư liệu
của Ngụy chí 4 tờ 27a2-27b5, đặc biệt là tờ chiếu năm Hàm Hi thứ nhất (264) của
Tào Hoán..." (Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, trang 385-386)...
Kỳ 7
Mỗi một di sản của tổ tiên đều phải
được truy tìm, cũng như mỗi một tấc đất của tổ tiên đều phải được gìn
giữ
Một minh chứng văn
hóa
Những phát hiện
nói trên của giáo sư Lê Mạnh Thát cho phép dựng lại lịch sử dân tộc trong thời
kỳ nước nhà không có sử liệu, sử sách được viết chủ yếu căn cứ theo các tài liệu
của Trung Quốc. Việc khẳng định chủ quyền của dân tộc thời trước Hai Bà Trưng,
thời Sỹ Nhiếp và sau đó nữa là có cơ sở. Những phát hiện về văn hóa, bắt đầu từ
Khương Tăng Hội với Lục độ tập kinh và Mâu Tử với Lý hoặc Luận, đặc biệt là sự
kiện 6 lá thư đề cập dưới đây càng minh chứng cho điều đó.Lý hoặc Luận của Mâu Tử là một tác phẩm nổi tiếng, được
viết vào cuối thế kỷ thứ II (198) và được lưu hành tại Trung Quốc bắt đầu từ thế
kỷ thứ V, có ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc. Nó còn là "sách gối đầu giường" của
người Phật tử Viễn Đông, cụ thể là Trung Quốc và Nhật Bản. Đến nửa đầu thế kỷ
XX, một loạt những nghiên cứu của các học giả Trung Quốc, Nhật Bản và Pháp được
công bố về tác phẩm này, gây nên một cuộc tranh biện sôi nổi và hào hứng, bắt
đầu từ công trình của Lương Khải Siêu, tiếp đó là của H.Maspéro, Tokiwa Daijo,
P.Pelliot, Chu Thúc Ca, Hồ Thích, Matsumoto Bunzaro, Dư Gia Tích và Fukui Kojun
(dẫn theo Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1). Ở Việt Nam, nó cũng được coi là
cuốn sách lý luận được quan tâm từ hơn 1.000 năm trước, đặc biệt từ năm 1932 khi
Trần Văn Giáp giới thiệu Mâu Tử là "người đầu tiên truyền bá đạo Phật ở Việt
Nam", cuốn sách đó được sự quan tâm rộng rãi của giới học giả và nhiều người
dân. Trong khi nghiên cứu Lục độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát đã phát hiện
những mối liên hệ thú vị và trên cơ sở một cuộc khảo sát hết sức công phu, ông
đã tìm ra bằng chứng khẳng định Mâu Tử là người Việt Nam và Lý hoặc Luận chính
là tác phẩm của Việt Nam truyền sang Trung Quốc. Công trình nghiên cứu này của
ông đã được công bố một phần trước năm 1975 và công bố toàn bộ sau này (xem Tổng
tập Văn học Phật giáo Việt Nam, tập 1).Theo giáo sư Lê Mạnh Thát: "Trong bối cảnh văn hóa thời
Mâu Tử, Lý hoặc Luận không phải viết để xiển dương Phật giáo, mà là một cuộc
tổng kết cuộc đấu tranh về văn hóa, giữa văn hóa Việt Nam đối với văn hóa phương
Bắc". Phải có một bề dày văn hóa như thế nào mới có thể có được một bản lĩnh văn
hóa như vậy. Một bên thì áp đặt Thi Thư như chân lý, Trung Hoa là trung tâm, một
bên Mâu Tử đáp trả "Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất", "năm kinh chưa
hẳn là lời của thánh hiền". Tiếp cận tác phẩm của Mâu Tử, chúng ta còn thấy dân
tộc ta đã bảo tồn văn hóa của mình như thế nào, tiếp thu có chọn lọc những tinh
hoa của Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo để phát triển nền văn hóa của mình như
thế nào và truyền bá văn hóa của mình ra nước ngoài ra sao.
Sáu lá thư và một vị
vua
Một phát hiện
cực kỳ quan trọng khác của giáo sư Lê Mạnh Thát là 6 lá thư nằm trong Đại tạng
kinh chữ Hán. Đó là 6 lá thư trao đổi giữa hai pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh với
một "sứ quân" của Giao Châu tên là Lý Miễu. Trước khi ông công bố 6 lá thư này,
chưa có một tài liệu nào đề cập tới. Từ điểm gây tò mò đầu tiên trong 6 lá thư
là địa danh "Giao Châu", ông đã tiến hành một cuộc truy tìm ngoạn mục. Trước hết
là tìm nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố lịch sử, tìm nguồn gốc Việt Nam về mặt
điển cố thư tịch, kế đó là tìm niên đại và tung tích tác giả 6 bức
thư.Khó khăn nhất là tìm ra tác giả của
chúng. Ông bảo tung tích của những người mang tên Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu
ngày nay chúng ta không biết một tí gì hết.Ông "kiểm soát toàn bộ" những tư liệu lịch sử Trung Quốc
và Phật giáo Trung Quốc, cũng như tư liệu lịch sử Việt Nam và Phật giáo Việt
Nam, cũng không tìm thấy những người có các cái tên ấy. Ông lục tìm trong Tấn
thư, Tống thư, Nam Tề thư, Lương thư, Ngụy thư, Bắc sử, Nam sử và Tư trị thông
giám sử cũng như Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án và
Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng không gặp một "sứ quân" (hoặc chức
vụ tương đương) nào với cái tên Lý Miễu; lục tìm trong Cao tăng truyện và Tục
cao tăng truyện cũng như Thiền Uyển tập anh, cũng không tìm thấy một pháp sư nào
có tên Đạo Cao hay Pháp Minh. Chỉ duy nhất trong Toàn Tấn văn 157 tờ 15a12-2 có
liệt ra tên một Thích Đạo Cao, nhưng kiểm tra bản mục lục của văn liệu này cũng
như xuất xứ của tên ấy dẫn từ Cao tăng truyện 5 tờ 255b15-17 thì thấy là Thích
Đạo Tung chứ không phải Đạo Cao, sự khác nhau đó là do Toàn Tấn văn khắc
nhầm.Ông mở rộng việc truy tìm sang các
tài liệu Nhật Bản và Triều Tiên. Trong khi khảo sát toàn bộ tài liệu liên quan
của Nhật, ông đọc kỹ lại Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục (là sách được Vũ
Điền thiên hoàng cho viết nhằm ghi lại tất cả những bộ sách Trung Quốc còn sót
lại trong Thư viện hoàng gia sau vụ cháy năm 887), tìm thấy một dữ kiện lôi
cuốn. Dưới mục thứ mười mang tên Tiểu học gia, liệt ra một bộ sách nhan đề "Tá
âm, một quyển, Thích Đạo Cao soạn" và dưới mục Biệt tập lại ghi "Đạo Cao pháp sư
tập, một quyển". Vấn đề là Đạo Cao tác giả của hai cuốn sách Tá âm và Đạo Cao
pháp sư tập này có phải là Đạo Cao pháp sư trong 6 lá thư hay không? Đối chiếu
thì thấy hai tác phẩm này chắc chắn không phải do người Nhật biên soạn mà phải
là từ Trung Quốc mang về, vì khảo sát toàn thể tài liệu Phật giáo Nhật Bản ông
không thấy tăng sĩ Nhật Bản nào mang tên Đạo Cao cả. Vấn đề là họ mang về Nhật
từ lúc nào. Một cuộc kiểm soát tiếp vẫn không cho biết một tí gì cả, chỉ biết
chắc chắn là nó phải được mang về trước năm 887 để có thể ghi vào bản thư mục
nói trên. Ông cũng kiểm soát những bản thư tịch liệt kê những tư liệu liên quan
tàng trữ ở các nước Anh, Pháp, Liên Xô, cũng không tìm thấy gì
hết.Tuy nhiên, ở đây xuất hiện một vấn
đề mới. Trước hết về cuốn Tá âm. Nó được liệt vào loại Tiểu học gia, mà căn cứ
vào định nghĩa của Tùy thư kinh tịch chí, nó là loại sách ngôn ngữ. Cần nói
thêm, một chú giải trong tài liệu Nhật Bản còn ghi "Kinh tịch chí của Tùy thư có
ghi Tá âm tự một quyển, nhưng không ghi họ tên người viết". Ghi chú này đã được
xác nhận từ tài liệu Trung Quốc và từ dẫn giải của các tài liệu Trung Quốc cũng
như Nhật Bản, có thể coi Tá âm tự là một tác phẩm khác nữa của Thích Đạo Cao.
Như vậy là ít nhất Thích Đạo Cao cũng có 3 tác phẩm được nhắc đến. Vấn đề đặt ra
là tại sao những tác phẩm đó được Nhật Bản đem về từ Trung Quốc mà Trung Quốc
lại không ghi một cách đàng hoàng trong các tài liệu chính thống của mình, mà
chỉ ghi một cách sơ sài khuyết danh trong Tùy thư? Tiếp tục nghiên cứu và đối
chiếu, ông xác định rằng sở dĩ như vậy là vì những sách đó chắc chắn không phải
tiếng Trung Quốc mà là tiếng nước ngoài.Những khảo sát như vậy dẫn đến kết luận, Đạo Cao chắc
chắn không phải là người Trung Quốc, Nhật Bản hay Triều Tiên, trong khi người
mang tên đó là một trong hai tác giả các bức thư trao đổi với Lý Miễu, "sứ quân"
Giao Châu. Bởi vậy Đạo Cao chắc chắn là người Việt Nam. Và từ nhân vật này, ông
phát hiện một chứng cứ quan trọng khác về một cột mốc phát triển ngôn ngữ dân
tộc: Tá âm là một quyển sách ngữ học về quốc âm, còn Tá âm tự là một cuốn tự
điển về thứ tiếng quốc âm đó. Rất tiếc là chúng đã thất lạc, nhưng chắc chắn là
có những cuốn sách đó. Ông bảo trong sưu tập Stein tàng trữ tại Bảo tàng viện
Anh Quốc có một thủ bản mang ký hiệu S.5731, mô tả một tài liệu giống như vậy,
nhưng vì ông "chưa có trong tay" thủ bản đó nên chưa thể khẳng
định.Chúng tôi dẫn chứng dài dòng đoạn
trên, tuy rất sơ lược, để bạn đọc phần nào thấy được cách làm việc cẩn trọng của
giáo sư Lê Mạnh Thát. Những khảo sát như vậy đã được tiến hành và dễ dàng tìm ra
tông tích Việt Nam của người thứ hai là Pháp Minh.Đối với nhân vật Lý Miễu, nội dung 6 lá thư cho thấy Lý
Miễu được gọi là "sứ quân" và lời lẽ của nhị vị pháp sư trong 6 lá thư coi ông
"ở địa vị của một bậc thiên tử". Đối chiếu danh sách những chức danh tương đương
với "sứ quân" như "thái thú", "thứ sử" Trung Quốc cử sang thì không thấy tên Lý
Miễu. Toàn bộ sử sách Trung Quốc cũng như Việt Nam đều không có tên Lý Miễu. Với
một khảo sát văn liệu tương tự cùng những phân tích chính trị, xã hội đến tận
ngọn nguồn, ông kết luận Lý Miễu chính là một vị vua của Việt Nam. Một nhân vật
xưng vương xưng đế trên một đất nước độc lập mà Trung Quốc không với tới thì sử
sách Trung Quốc không chép là không có gì lạ. Còn việc sử ta không chép cũng là
đương nhiên, vì không không có sử liệu. Ông ước đoán 6 lá thư đó được viết vào
những năm 435-440, nằm trong thời kỳ Nam Bắc triều (420-588) của Trung Quốc.
Niên đại của Lý Miễu nằm trong khoảng 390-470, của Đạo Cao khoảng 365-455 và
Pháp Minh khoảng 370-460. 6 lá thư chứa đựng những sử liệu vô cùng quý giá cho
việc nghiên cứu nghệ thuật, âm nhạc, văn học, Phật giáo, chính trị và tư tưởng
(bạn đọc quan tâm vấn đề này xin đọc Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, trang
427-582).
*
Xin
tạm dừng loạt bài này ở đây. Thiền sư Lê Mạnh Thát đã thực hiện một loạt các
công trình nghiên cứu đồ sộ về lịch sử dân tộc và lịch sử Phật giáo, về văn học,
triết học... Riêng các công trình lịch sử văn học của ông được tập hợp thành
Tổng tập văn học Phật giáo khoảng 50 tập (đã in 3 tập). Chúng tôi giới thiệu sơ
lược một số trong rất nhiều phát hiện lịch sử của thiền sư với mong muốn những
người quan tâm đến lịch sử nước nhà biết đến. Đối với các cơ quan quản lý ngành
lịch sử và những nhà sử học - những người đang nghiên cứu lịch sử, chúng tôi
thiết nghĩ nó có lợi chứ hoàn toàn không gây thiệt hại gì cho việc nghiên cứu,
vì nghiên cứu thì cần có những tài liệu mới do chính mình hoặc do người khác
phát hiện ra. Các cơ quan nghiên cứu lịch sử hoặc các nhà sử học có thể xem xét,
đánh giá, tranh biện, cái gì có tài liệu chứng minh là không đúng thì nói là
không đúng, cái gì cần tiếp tục làm rõ thì cùng nhau tìm tòi làm rõ, nhưng cái
gì thấy có cơ sở là đúng rồi thì cần thừa nhận để đưa vào dòng chính thống. Tất
cả đều nhằm mục đích tìm ra sự thật để tôn vinh dân tộc chúng ta. Mỗi một di sản
của tổ tiên đều phải được truy tìm, cũng như mỗi một tấc đất của tổ tiên đều
phải được gìn giữ.H.H.V
Nguồn: Hoàng
Hải Vân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét