Việt Nam trong thế giới
của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21(P 2)
"Ông Nguyễn Trung nguyên là đại sứ Việt Nam
tại Thái Lan và Úc. Ông cũng từng là thành viên ban cố vấn của cố thủ tướng Võ
Văn Kiệt." (RFA)
"Cách nghĩ đại Hán, bài Hoa, thần phục Hoa chẳng ích gì. Người Việt Nam ta cũng chẳng có cách gì bê đất nước mình đi chỗ khác để tránh mọi điều phiền toái. Vậy chỉ còn cách đứng tại chỗ
, suy nghĩ, làm những việc phải làm: Chịu trở thành bãi phế thải của cái công xưởng thế giới? Hay trở thành đối tác làm ăn được tôn trọng?" - NT
IV. Việt Nam đứng trước đòi hỏi sống còn
phải chuyển sang một giai đoạn phát triển mới
phải chuyển sang một giai đoạn phát triển mới
Bước vào thập kỷ
thứ hai của thế kỷ này, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước kể từ khi hoàn
thành sự nghiệp giành lại độc lập và thống nhất đất nước vừa tròn 35 năm. Trong
suốt thời kỳ 35 năm này, nước ta mất trắng 5 năm đầu tiên với nhiều hy sinh lớn
lao cho chiến tranh chống bọn diệt chủng Polpot – Yengsari ở Campuchia và chống
cuộc chiến tranh chớp nhoáng của Trung Quốc trên biên giới phía Bắc nước ta,
được gọi là cuộc chiến tranh 17-02-1979. Cuộc chiến tranh giúp nhân dân
Campuchia chống lại bọn Khmer đỏ diệt chủng còn kéo dài ác liệt thêm nhiều năm
nữa sau khi Phnompenh đã được giải phóng. Cuộc chiến tranh biên giới 17-02-1979
biến thành xung đột đẫm máu với Trung Quốc trên biên giới phía Bắc nước ta, kéo
dài mãi đến năm 1989 mới thực sự kết thúc. Trong khi đó đất nước lâm vào cảnh
khốn khó với biết bao nhiêu chuyện đau lòng – từ những đổ vỡ, hy sinh mất mát
mới trong nước phải chịu đựng, đến những tang tóc không kể xiết rơi vào những
người vượt biển phải bỏ đất nước ra đi…
Điểm
lại thực tế lịch sử nêu trên để thấy rõ bối cảnh vô cùng phức tạp đất nước ta
phải đối phó khi bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước trong hòa bình.
Người Việt Nam ta dù là ai, trong nước, ngoài nước, bất luận tôn giáo, chính
kiến, đẳng cấp nào, nếu còn nặng lòng với đất nước nhất thiết phải cùng nhau
nghiêm túc rút ra từ khoảng thời gian lịch sử này những bài học không được phép
quên. Vì vậy rồi đây sẽ phải đánh giá chuẩn xác và khách quan 15 năm (1975-1989)
bi kịch đầy máu và nước mắt sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã kết
thúc – không phải chỉ để làm rõ trách nhiệm trước lịch sử, quan trọng hơn là để
không vấp lại sai lầm cũ, để làm rõ con đường phải đi phía trước.
Điểm
lại như vậy thực tế lịch sử trước khi nói về kinh tế chỉ muốn xin lưu ý ngay từ
đầu:
Trong thập kỷ tới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước nhất thiết đòi hỏi phải có tầm nhìn thấu đáo cục diện và xu thế của thế giới - với lý tưởng lợi ích dân tộc và lợi ích quốc gia là duy nhất và trên hết, để có đủ trí tuệ và bản lĩnh tạo ra cho đất nước bên trong là sự đồng thuận không gì phá vỡ được, bên ngoài là một bối cảnh hòa bình tối ưu cho phép – bao gồm những mối quan hệ quốc tế thuận lợi có thể tranh thủ được.
Đương
nhiên, mỗi người Việt Nam được nói tới ở đây, còn món nợ lớn hơn thế đối với tổ
quốc mình trước sau nhất thiết phải trả. Đó là: Phải dũng cảm và nghiêm túc nhìn
lại cả chặng đường dân tộc Việt Nam ta đã trải qua từ khi chiến tranh thế giới
II kết thúc cho đến nay. Đơn giản vì lẽ: Có dân tộc nào muốn thành công trên con
đường trở thành một quốc gia phát triển và văn minh mà không phải nghiêm khắc
nhìn lại mình? Lịch sử không làm lại được và có những khúc quanh có không cưỡng
lại được, nhưng bài học thì phải rút ra. Đặt vấn đề như vậy, phải chăng có thể
rút ra:
(1)
Nhìn nhận phiến diện thế giới chúng ta đang sống, (2) sự giác ngộ không đúng tầm
lợi ích quốc gia trong bối cảnh quốc tế luôn luôn biến động vô cùng phức tạp,
(3) sự nô lệ vào ý thức hệ hoặc các niềm tin mù quáng - phải chăng đấy là ba
nguyên nhân khởi thủy kìm hãm sự phát triển của đất nước 35 năm qua? Ngày nay
còn phải cộng thêm nguyên nhân (4) là sự tha hóa mới trên nhiều phương diện. Suy
cho cùng, trước sau đấy vẫn là những vấn đề của trí tuệ, tầm nhìn và ý chí!
Dưới
đây xin tập trung nêu ra một vài vấn đề phát triển kinh tế của đất nước trong
thập kỷ tới (2011-2020).
1. Mô hình
phát triển theo chiều rộng của kinh tế nước ta hiện nay đã đi trọn vòng
đời
Kể
từ khi xóa bỏ cơ chế kinh tế bao cấp và bắt tay tiến hành công cuộc đổi mới năm
1986, nước ta thực sự bắt đầu đi vào thời kỳ phát triển trong thời bình. Tính
đến nay, chặng đường này trọn một phần tư thế kỷ (nếu lấy năm họp Đại hội toàn
quốc ĐCSVN lần thứ XI làm cột mốc).
Trong
25 năm này kinh tế nước ta vận hành theo mô hình tăng trưởng theo chiều
rộng: chủ yếu dựa vào (1) khai thác lợi thế so sánh về giá lao động rẻ
(trình độ tay nghề thấp, ít hàm lượng kỹ thuật, thậm chí một bộ phận đáng kể là
lao động cơ bắp), (2) khai thác tài nguyên thiên nhiên, (3) đẩy mạnh đầu tư từ
các nguồn trong nước và nước ngoài cho phát triển một nền kinh tế sử dụng nhiều
lao động giá rẻ và tiêu thụ nhiều tài nguyên thiên nhiên, (4) sử dụng lãng phí
đất đai và không thân thiện với môi trường.
Từ
10 năm trở lại đây mô hình phát triển theo chiều rộng cho thấy kinh tế nước ta
chỉ có tăng trưởng nhờ thâm dụng lao động rẻ và đầu tư mới, hầu như không có
phát triển. Thực tế này giải thích tại sao càng đuổi thiên hạ, khoảng cách tụt
hậu của ta cứ xoạc rộng ra mãi.
Nhìn
chung mô hình phát triển như thế cho thời kỳ này là cần thiết, nước ta đạt được
tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Tuy nhiên chất lượng tăng trưởng kinh
tế thấp và càng về sau càng thấp so với công sức bỏ ra, hoặc so với những cái
giá phải trả. Đại hội X đã phê phán tình trạng yếu kém của mô hình phát triển
theo chiều rộng.[33]
Mối
lo lớn nhất là sau ¼ thế kỷ tăng trưởng và phát triển kể từ khi đổi mới, nước ta
cho đến nay vẫn chỉ là người cung cấp lao động rẻ, nông phẩm thô, nguyên liệu
thô hoặc sơ chế thấp, sản phẩm gia công, sản phẩm chế tạo với hàm lượng công
nghệ thấp, đất đai và thị trường nội địa trở thành nơi thu hút FDI chủ yếu cho
công nghiệp có hàm lượng công nghệ thấp, gây nhiều gánh nặng cho môi trường tự
nhiên và xã hội... Với chiến lược phát triển dựa vào 4 yếu tố như vậy, thế mạnh
lớn nhất và nguồn lực nội tại lớn nhất của đất nước là con người Việt Nam không
được phát huy. Trên thực tế nước ta đang đi vào xu thế trở thành một nước
đi làm thuê và đất nước cho thuê với cả nghĩa đen và nghĩa bóng.[34]
Nước
ta có kế hoạch hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020. Nhưng trong 25 năm qua
quá trình công nghiệp hóa chủ yếu vẫn dựa vào 4 yếu tố của phát triển vừa nói
trên. Vì thế vẫn chưa làm bộc lộ rõ và chưa xác lập được thế mạnh để nền kinh tế
nước ta có thể bức phá trở thành một nước công nghiệp hóa trong một tương lai
gần. Cho đến nay cũng chưa xác định được đâu sẽ là chỗ đứng trong tương lai của
nền công nghiệp nước ta trong kinh tế thế giới để vươn tới.
Với
GDP tính theo đầu người hiện nay đạt khoảng 1000 USD – tăng khoảng 10 lần so với
khi bước vào đổi mới, nước ta mới ra khỏi nhóm nước đang phát triển có thu nhập
thấp. Hiện tại nền kinh tế nước ta phát triển ở mức thấp trên các phương diện:
trình độ lao động, hàm lượng công nghệ, năng lực kinh doanh, năng lực quản lý
đất nước, hiệu quả kinh tế, sự phát triển của con người, của văn hóa, xã hội và
của toàn bộ hệ thống chính trị... Nhìn chung sau 25 năm nước ta vẫn còn là một
quốc gia lạc hậu, vẫn chưa thấy hình hài của một nền kinh tế công nghiệp hóa,
càng chưa thể hình dung một quốc gia công nghiệp Việt Nam trong vòng một hai
thập kỷ tới sẽ ra sao. Điều này có nghĩa vào năm 2020 nước ta sẽ vẫn còn đứng
cách rất xa các chỉ tiêu của một nước được coi là hoàn thành giai đoạn công
nghiệp hóa.
Theo
IMF, năm 2008 GDP danh nghĩa (nominal) tính theo đầu người của ta là 1040 USD,
của Thái Lan là 4115 USD. Để đạt được mức phát triển trên nhiều phương diện như
của Thái Lan hiện nay (kết cấu hạ tầng, nhà nước pháp quyền, thu nhập tính theo
đầu người, quyền tự do dân chủ của dân...), ước tính nước ta cần 20 năm hoặc lâu
hơn nữa. Song Thái lan hiện nay vẫn chưa được coi là một NIC và vẫn trong tình
trạng cứ vài ba năm lại một cuộc đảo chính quân sự. Từ đó có thể suy ra: Tiếp
tục con đường phát triển hiện nay, nước ta hai ba chục năm nữa vẫn chưa thể trở
thành một nước công nghiệp hóa.
Theo
cách định nghĩa của UNDP và một số viện nghiên cứu trên thế giới, một nước được
coi là nước mới hoàn thành công nghiệp hóa (NIC), đại thể phải có các
tiêu chuẩn sau đây:
·
Có
những chuyển biến cơ bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công
nghiệp, tỷ trọng lao động trong nông nghiệp chiếm phần nhỏ nhất trong tổng số
lao động cả nước, (theo đánh giá của Hội đồng quy hoạch kinh tế và phát
triển Đài Loan, sau 25 năm đầu tiên tiến hành công nghiệp hóa, tỷ trọng
lao động nông nghiệp ở Đài Loan còn 18%, ở Hàn Quốc còn 12% lao động cả nước),
tỷ trọng nông nghiệp trong GDP chỉ còn rất thấp, công nghiệp chế biến chiếm tỷ
trọng chủ yếu trong công nghiệp và đã có các tập đoàn kinh tế tham gia vào các
“chuỗi” cung ứng hay sản xuất toàn cầu, trong toàn bộ nền kinh tế khu vực dịch
vụ vượt khu vực công nghiệp và khu vực nông nghiệp...
·
Có
khả năng lớn trong thu hút FDI.
·
Kinh
tế vận hành theo cơ chế thị trường và trong khung khổ của pháp
luật.
·
Quyền
công dân và các quyền tự do dân chủ khác trong xã hội ngày càng mở rộng. Nhà
nước pháp quyền ngày càng phát triển.
·
Có
đội ngũ lãnh đạo mạnh và tinh thông.
·
V…
v…
Một
quốc gia hoàn thành thời kỳ công nghiệp hóa còn phải được nhìn nhận theo các
tiêu chí của một xã hội công nghiệp. Đơn giản là rất khó tồn tại một nước công
nghiệp hóa trong một thể chế chính trị - văn hóa – xã hội lạc hậu. Trên phương
diện này, phải nói nước ta còn khá lạc hậu so với một nước công nghiệp hóa và so
với thế giới chung quanh về nhiều mặt: dân trí, tính công khai minh bạch, xã hội
dân sự, năng lực + tính trách nhiệm và tính tin cậy được (accountability) của hệ
thống chính trị và bộ máy nhà nước, đặt Hiến pháp và pháp luật lên trên hết, khả
năng đề kháng hay khắc phục những tha hóa mới trong quá trình công nghiệp hóa và
hội nhập, đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng lạc hậu và đi sai hướng của hệ
thống giáo dục[35]
với những hệ quả lâu dài và khó lường cho tương lai...
Nói
một cách hình ảnh: Đến năm 2010, sau ¼ thế kỷ đổi mới, nước ta có lẽ mới chỉ đi
được khoảng 1/3 hay một nửa đầu của toàn bộ chặng đường công nghiệp hóa mà thôi.
Từ
nay đến năm 2020 có cách nào “đi” hay “bay” nốt 2/3 hay một nửa chặng đường còn
lại không?
Trả
lời: Dứt khoát không! Thậm chí “đi” hay “bay” tiếp tục như mô hình phát triển
hiện nay, sẽ rất khó có một nước Việt Nam công nghiệp hóa trong vòng ba bốn thập
kỷ tới, hoặc không bao giờ![36]
Những
điều vừa trình bày trên cho thấy: Nhìn về bất kỳ phương diện nào, nước ta chắc
chắn không thể hoàn tất thời kỳ công nghiệp hóa vào năm 2020.
Tóm
lại, sau 25 năm công nghiệp hóa, nước ta có một nền kinh tế phát triển theo
chiều rộng và còn mang nặng các đặc tính: manh mún, bóc ngắn cắn dài, tranh thủ
được cái gì thì làm cái nấy. Nền kinh tế nước ta ngày càng có những mất cân đối
lớn, ngày càng đi sâu vào một cơ cấu kinh tế lạc hậu và ô nhiễm môi trường nặng
nề! Hơn nữa tính mất cân đối, tính lạc hậu này và tình trạng ô nhiễm môi trường
đã tới ranh giới chịu đựng cuối cùng của đất nước, vượt qua nó sớm muộn sẽ dẫn
tới đổ vỡ lớn.
Vài
ví dụ:
o Xuất khẩu than, dầu, gạo và nhiều sản phẩm khác đã tới đỉnh của khả năng cho phép, không thể vượt qua được, thậm chí tiếp tục duy trì những cái “đỉnh” này có thể dẫn tới thảm họa (hiện nay đã trù tính phải nhập than từ năm 2012).o Ô nhiễm môi trường và sử dụng đất đai lãng phí đã tới mức nguy hiểm, trong khi dân số tiếp tục tăng, ruộng đất ngày càng khan hiếm.o Cơ cấu kinh tế lạc hậu và nhiều chính sách kinh tế - xã hội hiện nay không cho phép tận dụng được mọi cơ may mà “cơ cấu dân số vàng”[37] có thể đem lại cho đất nước. Thậm chí “cơ cấu dân số vàng” này có thể biến thành mối đe dọa lớn vì nạn thất nghiệp và sự xuống cấp của xã hội đang ngày càng nghiêm trọng.o Những yếu kém về nhiều mặt trong thu hút FDI khiến nước ta về nhiều mặt thực chất đang là nước đi làm thuê và là đất nước cho thuê.o Nhập siêu và thâm hụt ngân sách cứ tiếp tục như hiện này sẽ hứa hẹn những đổ vỡ lớn trong tầm tay.Những năm 1994-1995 kinh tế nước ta bước vào cuộc khủng hoảng đầu tiên sau 10 năm đổi mới. Nguyên nhân chính là lực đẩy đầu tiên của đổi mới đã làm xong nhiệm vụ của nó, kinh tế bắt đầu có những mất cân đối mới, đầu tư kém hiệu quả, tăng trưởng và xuất khẩu đều giảm, lạm phát tăng cao. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 ở châu Á xảy ra chậm hơn và không phải là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế 1994-1995 ở nước ta (sự thật là nước ta kém nhạy bén nên không tận dụng được một số cơ hội do cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ năm 1997 đem lại).
Vào
quý IV năm 2007, kinh tế nước ta bước vào cuộc khủng hoảng lớn lần thứ 2 kể từ
khi tiến hành đổi mới. Năm 2007 lạm phát nhảy vọt lên 12,6%, trong khi đó tốc độ
tăng trưởng của năm là 8%; năm 2008 lạm phát bùng lên 19,89% (22,8% theo WB và
IMF), trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,2%,[38] năm 2009 lạm phát 6,88% và tăng trưởng GDP
đạt 5,32% (nguồn: TCTK và Bộ KH&ĐT). Ngoài những nguyên nhân tương tự như
cuộc khủng hoảng 1994-1995, cuộc khủng hoảng hiện nay còn do tác động nghiêm
trọng của một số chính sách vỹ mô, trước hết trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bùng nổ tháng 9-2008 (nghĩa
Vào quý IV năm 2007, kinh tế nước ta bước vào cuộc khủng hoảng lớn lần thứ 2 kể từ khi tiến hành đổi mới. Năm 2007 lạm phát nhảy vọt lên 12,6%, trong khi đó tốc độ tăng trưởng của năm là 8%; năm 2008 lạm phát bùng lên 19,89% (22,8% theo WB và IMF), trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,2%,[38] năm 2009 lạm phát 6,88% và tăng trưởng GDP đạt 5,32% (nguồn: TCTK và Bộ KH&ĐT). Ngoài những nguyên nhân tương tự như cuộc khủng hoảng 1994-1995, cuộc khủng hoảng hiện nay còn do tác động nghiêm trọng của một số chính sách vỹ mô, trước hết trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bùng nổ tháng 9-2008 (nghĩa là chậm gần một năm so với ở nước ta) làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế của nước ta hiện nay trầm trọng thêm, chứ không phải là nguyên nhân. (Tuy nhiên, giá đầu vào rẻ, nên mặt nào đó cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cũng giúp cho kinh tế trong nước bớt căng thẳng, hầu hết các sản phẩm xuất khẩu của nước ta vẫn tiếp tục giữ được tăng trưởng về khối lượng và nhìn chung kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng trong năm 2008 và 2009).
oCàng nhiều đô thị hiện đại mọc lên do phát triển không đồng bộ (nhất là quy hoạch, luật pháp, năng lực hành chính, các chính sách kinh tế, các ngành dịch vụ, nguồn nhân lực, các ngành cung ứng...) các thất bại và ách tắc càng lớn…
oVân vân... Vân vân...
Xin đừng để những lời khen vàng ngọc của nước ngoài về “tính năng động”, về “triển vọng tốt đẹp” của kinh tế Việt Nam, về “khả năng hấp dẫn” của thị trường Việt Nam, “Việt Nam là nền kinh tế đang lên”, về vân vân... ru ngủ chúng ta. Cứ cho những lời khen ấy là thực bụng, thì cũng đừng quên họ nhìn Việt Nam về nhiều mặt đang là thị trường tốt nhất để đưa tới những thứ họ đang không muốn có hay muốn loại bỏ ở nước họ, hoặc những thứ các nơi đang thừa ế và muốn tống khứ! Vinashin, các dự án thép và xi-măng khổng lồ là những ví dụ tiêu biểu, chưa nói đến hàng trăm sân golf….
Vào quý IV năm 2007, kinh tế nước ta bước vào cuộc khủng hoảng lớn lần thứ 2 kể từ khi tiến hành đổi mới. Năm 2007 lạm phát nhảy vọt lên 12,6%, trong khi đó tốc độ tăng trưởng của năm là 8%; năm 2008 lạm phát bùng lên 19,89% (22,8% theo WB và IMF), trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,2%,[38] năm 2009 lạm phát 6,88% và tăng trưởng GDP đạt 5,32% (nguồn: TCTK và Bộ KH&ĐT). Ngoài những nguyên nhân tương tự như cuộc khủng hoảng 1994-1995, cuộc khủng hoảng hiện nay còn do tác động nghiêm trọng của một số chính sách vỹ mô, trước hết trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bùng nổ tháng 9-2008 (nghĩa là chậm gần một năm so với ở nước ta) làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế của nước ta hiện nay trầm trọng thêm, chứ không phải là nguyên nhân. (Tuy nhiên, giá đầu vào rẻ, nên mặt nào đó cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cũng giúp cho kinh tế trong nước bớt căng thẳng, hầu hết các sản phẩm xuất khẩu của nước ta vẫn tiếp tục giữ được tăng trưởng về khối lượng và nhìn chung kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng trong năm 2008 và 2009).
Tình
hình phát triển kinh tế 25 năm qua, đặc biệt là những tín hiệu giống nhau của 2
cuộc khủng hoảng nối nhau liên tiếp cho thấy: Mô hình phát triển kinh tế theo
chiều rộng đã đi trọn vòng đời của nó, bắt buộc phải chuyển sang mô hình
khác.
2. Tính hiệu
quả và chất lượng của phát triển kinh tế ngày càng thấp.
Hiện tượng
này thể hiện tập trung nhất ở chỉ số lạm phát và chỉ số ICOR của nền kinh tế
nước ta trong những năm gần đây liên tục tăng cao và thuộc loại cao nhất ở châu
Á, đồng thời lạm phát vượt xa mức tăng trưởng. Nói nôm na đấy là hiện tượng:
Tiền của công sức bỏ ra ngày càng nhiều, hiệu quả kinh tế thu được có tỷ lệ ngày
càng thấp. Kéo dài tình trạng này sẽ kiệt sức.
Biểu
1
Năm | Tăng trưởng GDP | Tỷ lệ lạm phát | Chỉ số ICOR |
2006 | 8,17% | 7,7% | 5,0 lần |
2007 | 8,48% | 12,6% | 5,2 |
2008 | 6,23% | 19,89% (22,87%) | 6,9 |
2009 | 5,32% | 6,88% | 8 |
Nguồn: Thông báo của
TCTK cuối tháng 12-2009.
Chú
ý: Chỉ số ICOR
thời kỳ 2000 – 2006 của nước ta là 5,0. Một số chuyên gia đánh giá chỉ số ICOR
của Việt Nam năm 2008 cho toàn bộ nền kinh tế nếu tính đủ là <7, và riêng cho
khu vực nhà nước là <8 hoặc 2 con số, trong khi đó của khu vực tư nhân là
3,2, của khu vực FDI là 5,2.
Các
nước trong khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc chỉ số ICOR của nhiều thập kỷ gần
đây, phổ biến là 3 hoặc >3, nghĩa là chỉ số ICOR của nước ta cao gấp rưỡi
hoặc gấp đôi so với những nước này.[39]
Theo
WB từ tháng 12-2007 đến tháng 6-2008 tài sản thị trường chứng khoán Việt Nam
giảm mất 17 tỷ USD – nghĩa là mất một nửa giá trị; lạm phát trong 8 tháng đầu
năm 2008 của Việt Nam là 28,3%.
Vân…
vân…[40]
Tăng trưởng
GDP và ICOR một số quốc gia Đông Á
Quốc Gia | Giai đoạn | GDP (%) | Đầu tư/GDP | ICOR |
Hàn Quốc | 1961-1980 | 7.9 | 23.3 | 3.0 |
Đài Loan | 1961-1980 | 9.7 | 26.2 | 2.7 |
Indonesia | 1981-1995 | 6.9 | 25.7 | 3.7 |
Thái Lan | 1981-1995 | 8.1 | 33.3 | 4.1 |
Trung Quốc | 2001-2006 | 9.7 | 38.8 | 4.0 |
Việt Nam | 2001-2006 | 7.6 | 39.1 | 5.1 |
Diễn đàn Kinh tế
Thế giới (WEF) căn cứ vào 9 tiêu chí chủ yếu là (1) thể chế kinh tế, (2) hệ
thống cơ sở hạ tầng, (3) năng lực kinh tế vĩ mô, (4) hệ thống giáo dục và y tế
phổ thông, (5) trình độ giáo dục đại học, (6) hiệu quả vận hành của cơ chế thị
trường, (7) mức độ sẵn sàng về công nghệ, (8) mức độ hài lòng của doanh nghiệp,
và (9) mức độ sáng tạo - để đánh giá năng lực cạnh tranh của các quốc
gia. Đánh giá của WEF
cho thấy các năm gần đây nhất là nước ta liên tiếp tụt thứ bậc trong bảng xếp
hạng về năng lực cạnh tranh của các quốc gia trên cả 3 phương diện
quốc gia, sản phẩm và doanh nghiệp.
Trong
số các quốc gia được đem ra so sánh, năm 2006 nước ta xếp hạng thứ 64, năm 2007
xếp hạng thứ 68, năm 2008 xếp hạng thứ 70; nếu so sánh riêng trong khu vực Đông
Á, Việt Nam chỉ đứng trên Philippines và Campuchia (Myanmar chưa được xếp
hạng).[41] Đấy là các tín hiệu rõ nét minh họa thêm
tính hiệu quả của nền kinh tế nước ta ngày càng giảm sút.
Hiện
nay Việt Nam được liệt vào danh sách các nước đứng đầu thế giới về giá thuê trụ
sở văn phòng cho các doanh nghiệp nước ngoài, về chi phí trung gian, về tốn kém
thời gian trong xử lí các dịch vụ phục vụ kinh doanh... Bộ Công Thương nước ta
cũng thừa nhận tình trạng sử dụng đất đai và tài nguyên ở nước ta rất lãng phí,
mức độ tiêu hao năng lượng cho một sản phẩm mới trung bình cao gấp đôi so với
Thái Lan, Malaysia...[42]
Các
làng ung thư, các dòng sông chết - nhiều vùng kinh tế quan trọng hầu như không
còn một con sông nào được coi là không bị ô nhiễm, nạn khan hiếm nước nước và
nước sạch cũng như nhiều tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng và đang vượt khỏi khả
năng kiểm soát của bộ máy nhà nước. Chất lượng cuộc sống tiếp tục xuống cấp –
thể hiện rõ nhất trên lĩnh vực giáo dục và y tế, ách tắc giao thông, ô nhiễm môi
trường, tệ nạn quan liêu tham nhũng gia tăng...
3. Càng phát
triển, nền kinh tế càng nhiều ách tắc hay mất cân đối mới, thậm chí mất phương
hướng phát triển
Những
ách tắc này được đặt dưới tên gọi chung là những thắt cổ chai. Đó
là những mất cân đối ngày càng gay gắt
-
giữa
khả năng đáp ứng của kết cấu hạ tầng và đòi hỏi phát triển của nền kinh tế, giữa
sự phát triển yếu kém nguồn nhân lực và đòi hỏi của phát triển kinh tế - xã
hội;
- giữa khả năng quản
trị quốc gia và đòi hỏi phát triển của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa
và hội nhập tình trạng quan liêu và nạn tham nhũng rất nặng nề, khả năng thực
thi pháp luật yếu kém..;
- đặc biệt là tình
trạng nhập siêu và tình trạng thâm hụt ngân sách rất nghiêm trọng: Nhập siêu từ
năm 2000 ngày càng lớn và được coi là ở mức báo động. Kể từ năm 1995 đến 2005,
nhập siêu của Việt Nam luôn ở mức dưới 5 tỷ USD và ước khoảng 10% GDP; song đã
tăng vọt lên trên 12 tỷ USD vào năm 2007 (gấp 2,4 lần so với năm 2006) và đến
hết tháng 9/2008, tổng mức nhập siêu đã lên tới con số 15,8 tỷ USD (ước khoảng
trên 20% GDP/năm)... Nếu phân tích các quốc gia ta nhập siêu, sẽ thấy bức tranh
trầm trọng hơn (chủ yếu từ Trung Quốc và các nước châu Á – là các quốc gia có
công nghệ thấp). Thâm hụt ngân sách từ năm 2000 trung bình là 5-6% GDP/năm,
riêng năm 2009 dự kiến là 8% GDP/năm (thông báo của TCTK 12-2009 ước là
7%).
-
Mất
cân đối giữa một bên là năng lực và chất lượng thấp trong việc hoạch định chính
sách, chiến lược, quy hoạch phát triển.., và một bên là đòi hỏi phát triển mọi
mặt đất nước. Tình trạng hiện nay là càng phát triển càng rối và không đồng bộ.
Quyết định sáp nhập Hà Tây vào Thủ đô Hà Nội nhưng đến bây giờ chưa có quy hoạch
tổng thể thủ đô được mở rộng, quyết định khai thác bauxite ở Tây Nguyên và quy
trình triển khai lộn ngược của 2 dự án khai thác bauxite ở Nhân Cơ và Tân Rai là
hai ví dụ điển hình của tình trạng rối ren này[43]…Còn
nhiều quyết định kinh tế hay dự án khác vội vã, kém chất lượng với hệ quả khôn
lường như vậy. Không thể không đặt câu hỏi: Tại sao những chuyện như thế cứ lặp
đi lặp lại qua các năm?
- vân
vân...
Hệ
quả lớn nhất của tình trạng này là càng phát triển tích tụ ngày càng nhiều
ách tắc và mất cân đối lớn, phá vỡ mọi chiến lược hay chủ trương phát triển có
tính dài hạn.
4. Một số vấn
đề lớn trong quá trình công nghiệp hóa 25 năm qua
4.1. Trên thực tế chưa
có một chiến lược công nghiệp hóa?
Đọc
lại các văn kiện các Đại hội Đảng VII, VIII, IX và X về công nghiệp hóa – hiện
đại hóa, điều đáng chú ý là trong khi các văn kiện này dành nhiều sự chú ý và
nêu nhiều yêu cầu cụ thể cho quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa trong
công nghiệp hóa, phần bàn về nội dung công nghiệp hóa lại chỉ nêu: không công
nghiệp hóa theo kiểu cũ, cần tận dụng lợi thế so sánh, cần đẩy mạnh hướng về
xuất khẩu nhưng chú ý đến thay thế nhập khẩu các sản phẩm tự làm ra có lãi, chú
ý thu hút FDI, các chỉ tiêu tăng trưởng của từng kế hoạch 5 năm, và cái
đích: vào năm 2020 trở thành một nước công nghiệp hóa (gần đây điều chỉnh
là: cơ bản trở thành một nước công nghiệp hóa) theo hướng hiện đại.
Các
nghị quyết viết như vậy cho phép rút ra kết luận: Đấy là những chỉ tiêu số
lượng cần đạt được của từng kế hoạch 5 năm, một số quan điểm và cái đích mong
muốn cho năm 2020, chứ không phải là một chiến lược công nghiệp hóa.
Nhìn
lại chặng đường 25 năm công nghiệp hóa, thực tế cho thấy:
(a) Rất khó nói rằng
quá trình công nghiệp hóa của Việt Nam đã nhất quán đi theo một chiến lược phát
triển hay một quan điểm chiến lược rõ rệt nào đã được xác lập, sẽ trở thành
một nước công nghiệp hóa ra làm sao? Nước Việt Nam công nghiệp hóa sẽ định chiếm
chỗ đứng ở đâu trong thị trường kinh tế thế giới? – (thời toàn cầu hóa kinh tế
thế giới ngày nay không thể có một quốc gia hay một nền kinh tế công nghiệp hóa
mà không trả lời chuẩn xác hai câu hỏi này). Thậm chí có thể nói gần như
thiếu hẳn một chiến lược công nghiệp hóa thống nhất và xuyên xuốt các kỳ đại hội
Đảng và các nhiệm kỳ với một lộ trình rõ ràng, khiến cho không có được quá trình
thực hiện liên tục của một chiến lược, cái đích phải đạt được trở nên mơ hồ, mâu
thuẫn, mỗi Đại hội Đảng nói một khác (hiện nay nói là: Việt Nam cơ bản trở
thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020![44])
(b) Việt Nam là nước đi
sau, có rất nhiều cái bất lợi và cái lợi phải xử lý thỏa đáng – điều này có
nghĩa phải tìm ra con đường riêng của mình để không phải lặp lại những sai lầm
của các nước đi trước, tránh các nguy cơ trở thành “bãi thải công nghiệp” của
các nước khác, đồng thời tìm ra cho mình con đường thuận lợi hơn. Thị trường
thường chật cứng đối với nước đi sau – vì vậy phải khai thác lợi thế nước đi sau
trong việc chiếm lĩnh các thị trường ngách (các “niches”), đi vào các
chuỗi cung - ứng trong thị trường thế giới.., mà muốn thế phải
có các chính sách giáo dục đào tạo, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và chính
sách đối ngoại… cho phép liên kết, chiếm lĩnh những khâu nào đó trên thị
trường thế giới; hiển nhiên 25 năm qua những đòi hỏi này không được đặt ra hoặc
không được đặt ra đúng tầm để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa của nước ta.[45]
(c) Thiếu hẳn chiến
lược, kế hoạch và các quy hoạch cụ thể phát triển kết cấu hạ tầng đi song song
hoặc đi trước một bước mở đường cho sự tiến triển của công nghiệp hóa với nội
dung khai thác thị trường ngách và chiếm thị trường mới.
(d) Thiếu hẳn chiến
lược phát triển nguồn nhân lực mà sự nghiệp công nghiệp hóa / hiện đại hóa đất
nước đòi hỏi, thậm chí có thể nói hệ thống giáo dục và chính sách phát triển
nguồn nhân lực hiện nay là hoàn toàn bất cập, trực tiếp gia tăng sự tụt hậu của
đất nước và để lại nhiều hệ quả lâu dài.[46]
(e) Chỉ đề ra yêu cầu
chuyển đổi cơ cấu kinh tế với nội dung thay đổi tỷ trọng các khu vực kinh tế
(nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ), song không kèm theo các chính sách vỹ mô
thực hiện thay đổi cơ cấu kinh tế về chất lượng; do đó về cơ bản toàn bộ kinh tế
vẫn tăng trưởng theo số lượng, hiệu quả và tính bền vững nhìn chung thấp. Đại
hội Đảng đều phê phán tình trạng cơ cấu kinh tế chuyển đổi chậm, nhưng đến nay
chưa có kế sách gì đảo ngược tình hình này.
(f) Do chiến lược công
nghiệp hóa không rõ ràng và do cách điều hành kinh tế vỹ mô theo kiểu phân cấp
(trên thực tế là phân tán và manh mún), dẫn tới hình thành từ hàng chục năm nay
“nền kinh tế GDP tỉnh” với nhiều hệ quả trầm trọng. Trên thực tế
công nghiệp hóa ở nhiều tỉnh được hiểu là thi đua mở các khu công nghiệp, khai
thác tài nguyên không tái tạo được, phát triển ồ ạt các sản phẩm thượng nguồn
(trong đó phần lớn là nguyên liệu thô). “Nền kinh tế GDP tỉnh” cùng với các tập
đoàn kinh tế nhà nước hoạt động theo kiểu độc quyền khiến cho quá trình công
nghiệp hóa bị phân khúc hay xé lẻ trên nhiều phương diện, đồng thời đẻ ra nhiều
hệ quả chính trị, xã hội, văn hóa rất khó khắc phục.
(g) Đặc biệt nghiêm
trọng là các Đại hội đều thừa nhận cải cách chính trị không đi kịp với đòi hỏi
của phát triển kinh tế và xã hội, do đó chẳng những không thúc đẩy mạnh mẽ quá
trình công nghiệp hóa, không phát huy được cái mạnh và những thuận lợi của đất
nước – nhất là nguồn lực con người, thậm chí làm cho quá trình công nghiệp hóa
chậm lại và diễn ra trong bối cảnh quan liêu tham nhũng ngày càng nặng nề. Sự
lạc hậu của thể chế chính trị đang tiếp tục làm trầm trọng thêm tình trạng lạc
hậu của thể chế kinh tế, khiến cho toàn bộ hệ thống chính trị và bộ mày nhà nước
ngày càng bất cập trước những đòi hỏi phát triển của một quốc gia trong quá
trình công nghiệp hóa, Tình trạng bất cập này và tệ nạn quan liêu tham nhũng
ngày nay một mặt trở thành rào cản chính của quá trình công nghiệp hóa đất nước,
mặt khác là cha đẻ của các quyết sách làm chệch hướng hay kéo lùi quá trình công
nghiệp hóa.[47]
(h) vân...
vân...
Tất
cả những điều vừa trình bày toát lên một sự thật: Nước ta sau 25 năm trên
thực tế vẫn chưa có một chiến lược công nghiệp hóa đúng với cái tên gọi của
nó. Quá trình công nghiệp hóa 25 năm qua trên thực tế chủ yếu do sự lôi kéo,
dẫn dắt tự thân của cuộc sống và tác động của đầu tư và dòng vốn từ bên ngoài
(nghĩa là mang tính cơ hội rất cao), nhiều hơn là do chủ động thúc đẩy theo một
hướng chiến lược được xác lập của thể chế chính trị và do sự giác ngộ với tầm
nhìn sắc bén của những người lãnh đạo. Đã thế, quá trình công nghiệp hóa này lại
diễn ra trong tình hình thể chế chính trị không theo kịp. Cần nói ngay, phát
triển như thế đang ngày một gây ra ách tắc và rối loạn, dẫn tới sự lệ thuộc ngày
càng nguy hiểm. Gạt mọi chuyện lý lẽ sang một bên, điều đặc biệt quan trọng là
dù có hay không có chiến lược, mục tiêu hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020
là không khả thi.
4.2.
Hai vấn đề lớn trong xu hướng công nghiệp hóa hiện nay của đất
nước
Một
là: Vai trò con người
trong công nghiệp hóa
Các
Đại hội Đảng đều nhấn mạnh đến phát huy nội lực. Song quan điểm đúng đắn này lại
được hiểu theo một nghĩa rất hẹp: Cái gì tự làm được thì cố làm bằng vốn liếng,
sức lực của chính mình (trên thực tế rất gần với nội dung “tự cung tự túc”).
Trong khi đó 25 năm công nghiệp hóa qua chưa đặt ra vấn đề phát huy nội lực
trước hết có nghĩa là phát huy lợi thế và nguồn lực lớn nhất của nước ta là con
người Việt Nam.
Quan
điểm chiến lược phát huy thế mạnh và nguồn lực lớn nhất của đất nước là con
người có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và quyết định nội dung cho toàn bộ quá trình
công nghiệp hóa của nước ta cho đến khi tới đích hoàn thành công nghiệp hóa và
cho các giai đoạn phát triển đất nước sau đó. Quan điểm chiến lược này cho đến
nay vẫn chưa hình thành. Chính vì lẽ này, đến nay nước ta vẫn thiếu hẳn một
chiến lược phát triển con người và chưa có được một thể chế chính trị - xã hội
phù hợp với yêu cầu phát triển con người để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hóa.
Các
Đại hội Đảng nhấn mạnh coi con người là trung tâm, song lại hiểu vấn đề này chủ
yếu là đối tượng phục vụ - theo những khía cạnh phát triển giáo dục, văn hóa, xã
hội. Ngay quan điểm này cũng chưa làm được bao nhiêu, chưa thể nói con người đã
trở thành trung tâm phục vụ của mọi chính sách phát triển kinh tế xã hội. Chưa
đặt ra vấn đề phát triển con người thành chủ thể, thành nguồn lực lớn nhất, và
là động lực quyết định của quá trình công nghiệp hóa. Càng chưa thể nói là con
người với tính cách là công dân của đất nước được phát triển thành người chủ của
đất nước, của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước. Trong khi đó nhiều quyền và
quyền lợi của người dân bị vi phạm, nhiều trường hợp bị vi phạm nghiêm
trọng.
Xin
nhấn mạnh (a) quan điểm coi con người là trung tâm như ghi trong các nghị quyết
của Đảng và (b) quan điểm phát huy con người với tính cách là thế mạnh và nguồn
lực lớn nhất của đất nước cho sự nghiệp công nghiệp hóa như vừa trình bày trên
là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
Các
Đại hội Đảng VII và VIII nhấn mạnh không công nghiệp hóa theo kiểu cũ. Song như
đã trình bày trên, trong thực tế công nghiệp hóa diễn ra 25 năm qua chủ yếu dựa
trên 4 yếu tố (1) lao động rẻ, (2) khai thác tài nguyên thiên nhiên, (3) đẩy
mạnh tăng trưởng nhờ đầu tư, (4) sử dụng đất đai và tiêu hao môi trường –
thực chất đấy là công nghiệp hóa theo tư duy cũ và kiểu cũ, bởi lẽ
thế mạnh và nguồn lực lớn nhất của đất nước trong thời đại mới ngày nay là con
người hầu như không được tính đến thỏa đáng (chỉ mới chú trọng đến lao động dư
thừa và giá rẻ). Cũng vì lẽ này tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ đưa
vào nền kinh tế nước ta rất chậm, mặc dù nước ta ngày nay đang ở trong thời đại
thông tin.
Hai
là: Sa đà vào kinh tế
thượng nguồn
Càng
phát triển, quá trình công nghiệp hóa 25 năm qua có khuynh hướng càng đi sâu
vào kinh tế thượng nguồn: khai thác khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên
khác, phát triển sản phẩm thô, giá trị gia tăng rất thấp, duy trì công nghệ lạc
hậu, cái giá phải trả cho hủy hoại môi trường tự nhiên và môi trường xã hội rất
cao... Đặc biệt là trong các “nền kinh tế GDP tỉnh”, hầu như tất cả các tỉnh có
khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên thì đều coi đấy là thế mạnh của mình và ra
sức khai thác bừa bãi; có nơi Thủ tướng đã phải ra lệnh đình chỉ.
Phát
triển kinh tế thượng nguồn là điều khó tránh khỏi ban đầu đối với một nước nghèo
và lạc hậu. Song sai lầm là ở chỗ muốn lấy phát triển kinh tế thượng nguồn làm
cú hích và nguồn tích tụ vốn cho công nghiệp hóa, thậm chí coi kinh tế thượng
nguồn là một nội dung quan trọng, là thế mạnh của công nghiệp hóa. Tại nhiều
tỉnh trong nước đã và đang xảy ra phát triển kinh tế thượng nguồn với bất kỳ giá
nào, thậm chí có nơi chủ yếu là để gây thành tích, phục vụ yêu cầu “giữ ghế” hay
“chạy ghế”. Phát triển như vậy còn là hệ quả của tư duy lười biếng, dốt nát, đẽo
gọt đất nước – song trên mặt nhiều báo cáo các kỳ đại hội các đảng bộ tỉnh được
coi đây là thành tích!
Sai
lầm này 25 năm qua rất trầm trọng, vì tại nhiều nơi khoáng sản và các tài nhiên
thiên nhiên khác đã được khai thác đến cạn kiệt, hủy hoại môi trường, chỉ để
tiêu thụ lao động cơ bắp, có nơi chủ yếu để phục vụ xuất khẩu nguyên liệu hay
sản phẩm thô sang Trung Quốc.
Phát
triển kinh tế thượng nguồn và các sản phẩm hàm lượng chế biến thấp là điểm nổi
bật nhất của mô hình phát triển theo chiều rộng 25 năm qua.
4.3.
Sơ bộ đánh giá một số hệ quả
Để
thấy rõ triển vọng nguy hiểm của công nghiệp hóa theo mô hình phát triển theo
chiều rộng, dưới đây xin nêu ra một số vấn đề:
·
Các xí nghiệp
xi-măng, luyện thép đã có, đang xây dựng, hoặc đã được cấp phép xây dựng sẽ dẫn
tới tình hình nước ta vào năm 2020 sẽ dư thừa khoảng một chục triệu tấn xi
măng/năm và khoảng hai chục triệu tấn thép/năm trong tình trạng đất nước ngày
càng thiếu năng lượng gay gắt. Phải chăng mục tiêu công nghiệp hóa của nước ta
như vậy là để trở thành cường quốc xi-măng và thép thô trong thế kỷ 21 này? Sắp
tới còn xuất hiện công nghiệp bô-xít để sơ chế ra nguyên liệu sơ chế alumin trên
Tây Nguyên với nhiều hệ quả trầm trọng, bất chấp sự phản đối sâu rộng của dư
luận khắp nơi trong nước. Hoàn thành những dự án đã triển khai hay đã được
phê duyệt, đến năm 2020 tình hình hứa hẹn cảnh quan môi trường tự nhiên nhiều
vùng của đất nước sẽ bị “mặt trăng hóa”; kinh tế nước ta sẽ đổ vỡ, vì bị chính
xi-măng và thép thô kém khả năng cạnh tranh của chúng ta đè bẹp; riêng alumin sẽ
đem lại cho đất nước không phải chỉ sự tàn phá Tây Nguyên và các vùng chung
quanh mà cả sự lệ thuộc mới...[48] Trong khi
một số ngành quan trọng có hàm lượng công nghệ cao như công nghiệp ô-tô, công
nghiệp điện tử… có thể được coi là thất bại, nước ta lại nhập về công nghiệp chế
tạo cơ khí nặng như đóng tàu đang thua lỗ… Công nghiệp hóa như vậy nguy cơ trở
thành bãi thải công nghiệp rất lớn.
· Vào năm 2015
trở đi, nước ta sẽ thiếu năng lượng trầm trọng và phải nhập khẩu, trong khi đó
xuất khẩu than và dầu của nước ta suốt 25 năm qua hầu như bỏ qua tương lai của
đất nước! Năm 2012 đã tính đến phải nhập than với khối lượng rất lớn. Phát triển
thủy điện đã vượt qua cái ngưỡng cho phép và ngày càng gây ra nhiều hệ quả
nghiêm trọng.[49] Trong khi đó
nhà nước lại thiếu hẳn việc nghiêm khắc rà soát, đánh giá lại chính sách năng
lượng quốc gia hiện nay, thiếu hẳn những nỗ lực xử lý nghiêm khắc và khắc phục
tình trạng lãng phí và thất thoát năng lượng quá lớn đang diễn ra hàng chục năm
nay. Gần đây trên phương tiện truyền thông rộ lên dự án khai thác than bùn đồng
bằng Bắc Bộ thật hãi hùng! Đối mặt với tình trạng thiếu hụt năng lượng ngày càng
nghiêm trọng của đất nước, lãnh đạo quyết định xây dựng một lúc hai nhà máy điện
hạt nhân gồm 4 lò phản ứng ở Ninh Thuận không phải loại công nghệ tiên tiến nhất
(mặc dù nước ta là nước đi sau), với nhiều rủi ro còn đang bàn cãi chưa ngã
ngũ.[50] Tình hình cho thấy vấn đề năng lượng của
quốc gia không thể giải quyết đối phó tình thế theo kiểu “ngứa đâu gãi
nấy!”, “vớ được gì làm nấy!” (nghĩa là chịu tác động của chủ nghĩa cơ hội và các
hoạt động lobby)... Trên
thực tế cho đến nay vẫn chưa có một chiến lược năng lượng được cân nhắc thấu
đáo, nghiêm cẩn.
·
Nếu đánh giá
nghiêm túc chi phí/lợi ích (cost/benefit), bao gồm cả những chi phí bắt buộc cho
khắc phục những tác động ngoại vi của việc khai thác than, hoàn trả môi trường
tự nhiên nơi khai thác, sự thất thoát hàng chục triệu tấn than lậu/năm, sự tàn
phá môi trường tự nhiên trong vùng, đánh giá cái được và cái mất so với đòi hỏi
của chiến lược năng lượng quốc gia, vân… vân… khó có thể coi việc khai thác mỗi
năm khối lượng càng lớn than ở Quảng Ninh là một thành tựu kinh tế. Đúng hơn
nên coi đó là một thất bại kinh tế lớn và một sai lầm về chiến lược năng
lượng – không phải do chủ trương khai thác than, mà do năng lực quản lý và
hiệu quả kinh tế yếu kém; đặc biệt quan trọng là do thiếu hẳn một chiến lược
năng lượng quốc gia được xác định với những luận cứ vững chắc làm cơ sở cho việc
khai thác. Thậm chí còn có thể coi việc khai thác than Quảng Ninh như vừa qua
trong khi đất nước ngày càng khan hiếm năng lượng là ví dụ điển hình nhất trong
nhiều ví dụ của tình trạng “bóc ngắn cắn dài” tài nguyên quốc gia, các thế
hệ tương lai sẽ phải trả giá![51]
Trong cả nước còn có nhiều công trình khai thác titan, khai thác đồng, khai thác
các khoáng sản khác... hầu hết chỉ để cho xuất khẩu nguyên liệu, với những hệ
quả xấu tương tự.
· Rừng phòng hộ và
rừng tự nhiên ngày càng bị trọc hóa và chỉ còn lại rất ít; đặc biệt là rừng đầu
nguồn đã rất ít mà còn đang tiếp tục bị xâm phạm nghiêm trọng. Lũ lụt ngày càng
trở nên nghiêm trọng hơn và khó khắc phục hơn. Đất đai bị xói mòn và sa mạc hóa
cùng với tình trạng chất lượng thổ nhưỡng ngày càng xuống cấp với tốc độ rất
đáng lo ngại. Riêng cơn bão Ketsana 26-09-2009 vừa qua gây ra lũ lụt lớn nhiều
nơi ở Tây Nguyên còn là lời cảnh báo nghiêm khắc đối với việc khai thác bauxite
ở Tây Nguyên – nhất là đối với các hồ chứa chất thải bùn đỏ nhiễm hóa chất độc
dự kiến sẽ được xây dựng ở vùng này! Xin hãy đến tận nơi các khu khai thác này,
dù là titan ở dọc bờ biển miền Trung, dù là những cánh rừng nham nhở do khai
thác quặng sắt ở Lào Cai để xuất khẩu sang Trung Quốc, các vùng khai thác vàng
bừa bãi ở Bắc Kạn, Quảng Nam, Bình Thuận... – mà chủ yếu là khai thác lậu, những
dòng sông chết, những con sông bị đổi dòng và đôi bờ sụt lở do khai thác cát bừa
bãi, những cánh đồng hoang do các dự án treo... để nhìn tận mắt đất nước đang bị
băm vằm và ô nhiễm như thế nào!
· Xin hãy đối chiếu
thực tế nêu trên với quan điểm ghi trong nghị quyết Đại hội X: “Căn cứ vào nguồn
lực và hiệu quả, Nhà nước tập trung đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư để phát triển
những sản phẩm quan trọng của nền kinh tế như lọc hóa dầu, khai thác quặng và
luyện thép, phân bón, hóa chất, xi-măng, khai thác bô-xít và sản xuất alumin,
bột giấy gắn với trồng rừng và một số sản phẩm cơ khí chế tạo” (Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc khóa X, trang 197-198)
·
Vân...
vân...
Nhìn
dài hạn đến năm 2020, hoặc 2030.., có thể nói ngay từ bây giờ nếu không
có quyết tâm thay đổi hẳn tư duy về phát triển để hướng mạnh vào phát triển bền
vững chủ yếu dựa vào phát huy nguồn lực con người, nếu không đảo ngược được xu
thế phát triển như đang diễn ra, nếu cứ tiếp tục phát triển theo hướng xâm phạm
môi trường tự nhiên, bóc lột các nguồn tài nguyên không tái tạo được một cách
không thương tiếc, viễn cảnh của nước ta thật rất đáng lo ngại! Các thế hệ con
cháu chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt. Trong khi đó tác động của biến đổi khí
hậu toàn cầu ngày một gay gắt, nhất là đối với nước ta.[52]
5. Vấn đề
nông dân trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay
Nghị
quyết 26 Hội nghị Trung ương 7 khóa X ban hành ngày 05-08-2008 viết:
“Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Ðời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hóa. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Ðời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc”.
Đấy
là bức tranh khái quát trong văn kiện chính thức của Đảng về tình hình nông
nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta hiện nay (theo cách nói “tam nông”) -
đương nhiên vẫn theo cách nhìn so ta bây giờ với ta trước đây và còn bỏ
qua nhiều vấn đề hệ trọng khác trong nông thôn.
Trước
khi nêu một số vấn đề cụ thể cần đặc biệt quan tâm, xin nhấn mạnh là nông nghiệp
nước ta nói chung, đặc biệt là nông dân nước ta nói riêng, đã góp phần cực kỳ
quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trên mọi phương diện:
đảo ngược tình thế nguy hiểm của đất nước, mở đầu và tạo đà cho toàn bộ công
cuộc đổi mới phát triển, bảo đảm an ninh lương thực và an ninh chính trị, tạo ra
tiềm lực mới cho đất nước, mở rộng thị trường kinh tế đối ngoại, tăng cường khả
năng hội nhập của đất nước trong giai đoạn đất nước còn nghèo và nền kinh tế còn
chậm phát triển...
Đặc
biệt cần nhấn mạnh sự đóng góp của nông dân có ý nghĩa rất to lớn và vô cùng
quan trọng. Chính những thành tựu này cho thấy vai trò của nông dân và nông
nghiệp trong quá trình phát triển đất nước – cụ thể ở đây là trong quá trình
công nghiệp hóa/hiện đại hóa và trong hội nhập kinh tế thế giới chưa được nhận
thức đúng tầm, dẫn đến những yếu kém và tồn tại lớn như đã nêu trong NQTƯ 26
khóa X.
Nông
dân là quân chủ lực của các cuộc kháng chiến đầy hy sinh gian khổ, có những đóng
góp có ý nghĩa rất to lớn và vô cùng quan trọng trong suốt 25 năm đổi mới vừa
qua như trên đã nói, nhưng hiện nay lại là thành phần xã hội đang chịu nhiều
thiệt thòi nhất trong quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá và hội nhập kinh
tế thế giới. Một bộ phận nông dân vượt qua được tác động của quá trình này và
tìm được con đường sản xuất kinh doanh dẫn tới một cuộc sống khá giả hơn; song
bộ phận này chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn ở nông thôn.
Các
chính sách hiện hành và việc thực thi chúng cho thấy không thể ngăn chặn tình
trạng bần cùng hoá vẫn tiếp tục diễn ra đối với bộ phận nông dân bị tác động
trực tiếp. Nhìn chung, khoảng cách thu nhập của nông dân – đặc biệt là của của
bộ phận nông dân bị tác động trực tiếp của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa
- đang gia tăng ngày càng nhanh, dẫn đến nhiều hệ quả khác nhau của phân hóa xã
hội. Chất lượng cuộc sống của họ, các quyền lợi về giáo dục, y tế, các phúc lợi
xã hội khác của họ trên thực tế ngày càng giảm sút so với sự tăng trưởng và phát
triển của kinh tế cả nước. Mặt khác nông dân cũng là nạn nhân chính của thiên
tai, dịch bệnh (cho người và cho nông nghiệp), tình trạng môi trường tự nhiên bị
tàn phá, nạn lạm phát và nhiều tác động khác của quá trình công nghiệp hóa, đô
thị hóa cũng như của tình trạng quan liêu tham nhũng nói chung (ở nông thôn rất
nặng so với thành thị).[53]
Cần
đặc biệt lưu ý là sự biến động của thị trường và giá cả (được mùa rớt giá,
được giá mất mùa..; hiện tượng nông dân bị ép mua ép bán <đầu vào –
đầu ra>, hiện tượng lúc phải chặt loại cây này, lúc phải bỏ chăn nuôi kia với
nhiều tổn thất lớn cho nông dân...) gần như trở thành thách thức thường
xuyên đối với nông dân. Họ hầu như không có khả năng gì đáng kể để tự bảo hộ, để
tự đối phó với những thách thức này. Có thế nói họ hầu như bị bỏ mặc, trong khi
đó sự bảo hộ và những hậu thuẫn từ phía nhà nước và các cơ quan chức năng có thể
xem như muối bỏ bể. Một ví dụ trong trăm ngàn ví dụ: Hàng chục năm nay nông dân
Nam bộ là chủ lực trong xuất khẩu gạo, song đến nay vẫn chưa có cách gì thỏa
đáng giảm thiểu sự thiệt hại khá lớn trong thu hoạch mùa màng, thiếu nghiêm
trọng các silo cất giữ lúa, đầu vào và đầu ra cho sản xuất của họ bị tư thương
và thậm chí của cả các công ty quốc doanh ép giá... Trong khi đó các hiện tượng
như ô nhiễm môi trường, thiên tai dịch bệnh, các hệ quả của biến đổi khí hậu,
cường độ canh tác, việc sử dụng ngày càng nhiều hoá chất, sự khan hiếm nước và
nguồn nước sạch… ngày càng trầm trọng. Thực tế này khiến cho sản xuất nông
nghiệp và chăn nuôi ngày càng rủi ro, bấp bênh, làm nghiêm trọng thêm tình trạng
bần cùng hoá nông dân, cản trở sự phát triển nông nghiệp bền vững.
Cần
lưu ý, tình trạng bần cùng hóa nông dân cùng với nhiều thiệt thòi khác của nông
thôn (nhìn chung còn rất lạc hậu) tự nó đang xâm hại nghiêm trọng hay tước bỏ
nhiều quyền của người nông dân. Đầu tiên phải kể đến: học hành mở mang trí tuệ,
tiếp cận với tri thức và công nghệ, quyền thụ hưởng các phúc lợi xã hội khác...
nhằm nâng cao đời sống kinh tế cũng như nâng cao quyền năng của chính mình trong
xã hội. Đấy là những điều kiện hàng đầu để người nông dân tự bảo vệ được mình và
tìm đường thoát khỏi cái nghèo và lạc hậu. Song những điều kiện hàng đầu này
thường xuyên bị cái nghèo và bất công cướp đi, khiến cho cái nghèo và lạc hậu
của họ trở thành truyền kiếp. Sự thiếu vắng của xã hội dân sự và nhà nước pháp
quyền trong nông thôn làm cho tình trạng này của họ trầm trọng thêm. Tất cả giải
thích vì sao sau 25 năm công nghiệp hóa mà nông thôn nước ta nhìn chung vẫn rất
lạc hậu, chỉ cần bước chân ra khỏi thành phố là có thể thấy tận mắt. Trong khi
đó khoảng 70-80% các vụ khiếu kiện hàng năm trong cả nước trước hết là của nông
dân.
Thực
tế vừa nói trên đặt ra nhiều thách thức mới trong tương lai – nhất là trong tình
hình nước ta ngày càng chật, người ngày càng đông: nước ta có dân số đứng thứ 12
trên thế giới, mật độ dân số nước ta cao gần gấp 5 lần mức của thế giới, gấp 2,5
lần các nước Đông Nam Á, gấp 2 lần Trung Quốc... Trong khi đó nguy cơ sa mạc hóa
trong đất liền, nguy cơ biển lấn đất và nhiễm mặn, các thiên tai khác do hệ quả
của hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu ngày càng lớn.
Tại
nhiều vùng nông nghiệp rộng lớn của nước ta cứ 1 ha đồng ruộng bị chuyển đổi mục
đích sử dụng cho công nghiệp hoá và đô thị hoá khiến cho 20 – 30 nông dân mất
việc làm và và 3 – 4 hộ mất kế sinh nhai. Trong khi đó tốc độ chuyển dịch ngành
nghề cho nông dân diễn ra rất chậm, sau 25 năm đổi mới và tiến hành công nghiệp
hoá tỷ trọng lao động nông nghiệp vẫn chiếm trên 60% lao động cả nước. Cho đến
nay mới chỉ có 28% lao động cả nước được đào tạo về nghề nghiệp, tỷ lệ này trong
nông dân còn thấp hơn nhiều lần. Thực tế này là nguồn gốc nhiều hiện tượng xã
hội đau lòng, trước hết là nạn thất nghiệp, các “chợ vợ” cho người nước ngoài,
nạn mãi dâm, tình trạng bán cả cơ nghiệp và tài sản tìm đường đi lao động ở nước
ngoài với nhiều cơ cực và bị lừa gạt… Tình trạng khiếu kiện đất đai nóng bỏng từ
hàng thập kỷ nay, sắp tới sẽ còn quyết liệt hơn khi phải dành một diện tích đáng
kể cho phát triển đường sá và các công trình kinh tế khác. Trong khi đó thiếu
hẳn một quy hoạch tổng thế cho cả nước có khả năng đón đầu sự phát triển này và
giảm bớt những tổn thất.
Nông
dân các dân tộc ít người ở các vùng núi còn phải chịu đựng nhiều thiệt thòi hơn,
do rừng núi vốn là quê hương lâu đời, không gian sinh tồn và không gian văn hoá
của họ đang ngày càng bị lấn chiếm. Nạn phá rừng bừa bãi của các công ty và lâm
tặc, việc lấn đất lấn rừng, làm lâm trường, làm kinh tế trang trại... cùng với
tình trạng nhập cư ồ ạt đang uy hiếp ngày càng nặng nề sự tồn tại và tương lai
các tộc ít người ở nước ta. Còn quá nhiều vấn đề tồn tại trong việc tái định cư
và ổn định cuộc sống cho đồng bào các tộc ít người phải di dời đi nơi khác do
những công trình thủy điện đã hoàn thành hoặc đang xây dựng... Nên đến tận nơi
các công trình thủy điện chi chít miền Trung để thấy tận mắt cảnh quan và môi
trường tự nhiên, những cánh ruộng và đất đai trồng trọt vô cùng quý giá tại đây,
môi trường xã hội, quê hương văn hóa bản địa... của đồng bào các tộc ít người ở
đây bị tàn phá, bị cướp đi như thế nào!
Nhìn chung, những
nỗ lực bỏ ra cho việc cải thiện đời sống kinh tế - văn hoá – xã hội đối với đồng
bào các tộc ít người là to lớn so với tình hình đất nước còn nghèo, song không
đảo ngược được xu thế nói trên – trong đó nguyên nhân chính lại là sự yếu kém về
năng lực và phẩm chất của chính quyền các cấp. Tình hình đang trở nên đặc biệt
nghiêm trọng trong việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Nhà văn Nguyên Ngọc cảnh
báo: “Chấp nhận chương trình này (khai thác bauxite Tây
Nguyên) là chúng ta chấp nhận không còn Tây Nguyên, không còn cái mái nhà phải
giữ cho kỳ được để đảm bảo phát triển bền vững, không chỉ cho Tây Nguyên mà cho
cả nước; là chấp nhận phát triển bằng bất cứ giá nào, chấp nhận hy sinh tương
lai cho hôm nay. Cũng là không còn coi trọng sự tồn tại của các tộc người bản
địa như những thực thể văn hoá xã hội từng là chủ nhân của vùng đất có ý nghĩa
sinh tử này của tổ quốc ta.”
Làng
nghề (nói cho đúng hơn ở nhiều nơi là nghề riêng của làng) và kinh tế trang trại
là hai hình thái kinh tế có khả năng lớn trong việc thu hút lao động ở nông
thôn, bao gồm cả việc chuyển đổi nghề nghiệp cho một bộ phận nông dân nhất định.
Hai hình thái kinh tế này trong những năm qua phát triển mạnh, góp phần tích cực
thay đổi bộ mặt nông thôn. Song sự phát triển này chủ yếu do sự vận động tự thân
của nông thôn tìm đường tự cứu mình và phát triển chính mình, không thể tránh
khỏi những hậu quả đặc thù của tình trạng tự phát. Chính sách của nhà nước và
những khuyến khích hay hậu thuẫn cần thiết phải có cho hai hình thái kinh tế này
tuy đã làm được một số việc rất khiêm tốn, nhưng vẫn còn nhiều bất cập, thậm chí
nhiều địa phương còn tồn tại một số rào cản – có nghĩa trên thực tế là không
khuyến khích.
Một
vấn nạn chưa có giải pháp là tổn thất lớn hàng năm về người và của, về môi
trường đất đai do thiên tai gây ra, lặp đi lặp lại trong một số vùng nhất định.
Thực tế này cho thấy đang thiếu hẳn một chủ trương chiến lược giảm thiểu dần
những tổn thất và hậu quả của thiên tai – bao gồm cả việc di dời hoặc quy định
lại những vùng dân cư nhất định mà thiên tai thường xuyên lặp lại, từng bước
kiên cố hóa lâu dài, hay hiện đại hóa một số những công trình nhất định thuộc hệ
thống phòng chống thiên tai... Hiện nay vẫn chưa hình thành được những quan điểm
hay chủ trương chiến lược dự phòng, các công việc phải triển khai ngay từ bây
giờ trở đi cho tình huống vào những năm 2030, 2050…
Nước
ta là một nước nông nghiệp, nhưng cho đến nay thực sự đang thiếu hẳn một chiến
lược phát triển nông nghiệp bền vững và hài hoà với quá trình công nghiệp hoá,
đô thị hoá. Thực tế đang diễn ra một quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá –
kể cả hiện tượng xây dựng bừa bãi các sân golf[54]
– ngày càng gây ra nhiều gánh nặng mới cho nông dân và nông thôn.
Nông nghiệp
bền vững
Dựa vào kinh nghiệm của các nước đi trước,
có thể nói:
Nông nghiệp bền
vững nhìn về nhiều phương diện thực chất là một cuộc cách mạng nông nghiệp trong
quá trình công nghiệp hóa, là một bộ phận hữu cơ của quá trình công nghiệp hóa.
Là nước đi sau,
hướng tới một nền nông nghiệp bền vững là hướng tới việc từng bước đưa
vào nông nghiệp những thành tựu mới nhất của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ, những thành tựu mới của văn minh nhân loại - kể cả trong lĩnh vực tổ chức,
quản lý việc canh tác, kinh doanh.., - là quy hoạch lại phát triển nông nghiệp,
xắp xếp lại nông thôn, tổ chức lại quản lý nông thôn, xây dựng đời sống tinh
thần và văn hóa mới trong xã hội nông thôn... -,.., tất cả nhằm tạo ra lợi thế
phát triển tối ưu chung cho toàn bộ nền kinh tế của đất nước...
Cốt lõi của
phát triển nông nghiệp bền vững là (1) phát triển được nguồn lực con người trong
nông nghiệp, (2) tạo ra được nền nông nghiệp có năng xuất và hiệu quả kinh tế
cao, (3) nền nông nghiệp có khả năng gìn giữ và tái tạo được độ phì nhiêu của
đất đai, (4) nền nông nghiệp có khả năng góp phần quyết định gìn giữ môi trường
tự nhiên của quốc gia, (5)nền nông nghiệp có khả năng đóng góp tốt nhất vào phát
huy lợi thế so sánh của quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu hóa của thế giới...
Một nền nông
nghiệp cao như thế, có nhiều hàm lượng khoa học, kỹ thuật và công nghệ như thế,
sẽ làm mờ đi ranh giới giữa nông nghiệp và công nghiệp, và vì lẽ này nó trở
thành một bộ phận hữu cơ của toàn bộ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Lợi thế về nông nghiệp của nước ta rất lớn, song rất cần một chiến lược
phát triển nông nghiệp bền vững như thế để phát huy, để góp phần tăng thêm thế
mạnh cho đất nước. Đặt vấn đề như vậy rồi đối chiếu với chính sách hiện hành và
các việc đang làm, sẽ thấy nhiều việc phải làm khác đi, nhất là sẽ thấy tính bức
xúc của việc xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững.
Hướng về một nền nông nghiệp bền
vững như thế là nhiệm vụ quốc gia phải phấn đấu suốt cả một thế hệ con người,
hoặc thậm chí của vài thế hệ, và hoàn toàn không thể tiếp cận bằng những quan
điểm “giai cấp”, “quan hệ sản xuất”, “ý thức hệ”... đang chi phối đường lối
chính sách hiện hành đối với phát triển nông nghiệp.
Còn
phải chờ xem những chủ trương chính sách mới đề ra gần đây cho về vấn đề “tam
nông” (Nghị quyết 26, tháng 08-2008) sẽ được thực hiện ra sao,[55] mặc dù như thế là chậm. Cái đúng được đề
ra trong nghị quyết 26 là coi giải quyết những vấn đề của nông dân và nông
nghiệp là một nhiệm vụ có vị trí chiến lược trong công nghiệp hóa và trong sự
nghiệp bảo vệ đất nước, là trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Tuy nhiên, điều quyết định là sẽ có những biện pháp thực hiện cụ thể như thế
nào?
Tồn
tại lớn nhất là cho đến nay vẫn chưa tìm ra được con đường phát triển một nền
nông nghiệp bền vững, hiện đại, gắn liền với việc chuyển dịch một bộ phận ngày
càng lớn lao động nông nghiệp sang các ngành nghề khác. Tất cả các Luật và các
chính sách hiện hành không đáp ứng được đòi hỏi này. Tất cả những nỗ lực cụ thể
loay hoay chung quanh việc cải tiến mô hình hợp tác xã cũng không giải quyết
được vấn đề.
Không
giải quyết thành công vấn đề nông dân, sẽ không có một nước Việt Nam công nghiệp
hóa. Nâng cao dân trí, khả năng tiếp cận công nghệ mới, việc làm, phát triển
nông phẩm và thực phẩm sạch và cao cấp, đặc biệt là phát triển nông nghiệp dựa
trên công nghệ sinh học và gìn giữ môi trường sinh thái, ngày càng mở rộng thị
trường trong nước và bên ngoài cho sản phẩm cao cấp của mình, sự hậu thuẫn và
bảo hộ không thể thiếu của nhà nước... đó là những đòi hỏi nóng bỏng của nông
dân và của nền nông nghiệp Việt Nam, Nhà nước và toàn xã hội có nghĩa vụ phải
đáp ứng tốt nhất.
Rất
nên tận dụng lợi thế nước đi sau, tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại và hội nhập
kinh tế thế giới sớm phát triển được một nền nông nghiệp hiện đại, nhất là hướng
vào các nông phẩm và thực phẩm cao cấp có giá trị gia tăng cao, có ưu thế lớn
tại mọi thị trường trong nước và nước ngoài. Cần coi đây là một nội dung quan
trọng trong công nghiệp hóa của nước ta, phát huy tối đa lợi thế so sánh mọi mặt
của nước ta.
Như
vậy, tư duy về công nghiệp hóa cũng phải thay đổi cho phù hợp với đòi hỏi
này.
Chú
ý: Có lẽ không nên
dùng khái niệm “tam nông”, vì có hơi hướng học mót, không sáng tạo. Trên hết cả,
khái niệm “tam nông” không nói lên được mọi vấn của vấn đề nông nghiệp trong
tổng thể hữu cơ của quá trình công nghiệp hóa. Ngay ở Trung Quốc đã bắt đầu phải
nói đến “tứ nông”. Chẳng lẽ rồi đây ta cũng sẽ lại nói theo “tứ nông”? Phát
triển nông nghiệp bền vững đòi hỏi phải ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ, phải có sự hỗ trợ và kết hợp rất quan trọng của công nghiệp. Vì lẽ
này phát triển nông nghiệp bền vững phải là một thành phần chiến lược trong toàn
bộ chiến lược công nghiệp hóa. Nói ngắn gọn, muốn phát triển nông nghiệp bền
vững phải thay đổi cơ bản quan niệm và quá trình công nghiệp hóa / đô thị hóa
đang diễn ra hiện nay ở nước ta. Không phát triển thành công nông nghiệp bền
vững, quá trình công nghiệp hóa ở nước ta có nguy cơ sẽ chỉ mang lại một bãi
thải công nghiệp toàn quốc! Chính vì lẽ này, công nghiệp hóa thực sự là một quá
trình quy hoạch, xắp xếp lại giang san đất nước.
6.
Chuyển sang giai đoạn phát triển mới - giai đoạn phát triển theo chiều sâu - trở
thành đòi hỏi tất yếu của đất nước
Tất
cả những vấn đề đất nước phải đối mặt như đã trình bày trong các điểm từ 1-5 bên
trên khẳng định tất yếu này.
Phải
nói việc chuyển giai đoạn phát triển một cách có ý thức như vậy là một nhiệm vụ
cực kỳ khó khăn và gian khổ. Hơn lúc nào hết phải huy động (a) trí tuệ cả nước,
(b) kinh nghiệm của thế giới, (c) sự quyết tâm một lòng một dạ của toàn dân, và
(d) sự tận tụy, trung thành tuyệt đối của hệ thống chính trị và bộ máy
nhà nước đối với lợi ích quốc gia (xin đặc biệt nhấn mạnh yếu tố này), để có
thể thực hiện thành công nhiệm vụ sinh tử này với cái giá phải trả thấp nhất.
Làm thế nào để Việt Nam hội đủ được 4 điều kiện này? Một lần nữa tình hình cho
thấy tầm nhìn của lãnh đạo và chất lượng của hệ thống chính trị trở thành yếu tố
quyết định.
Dưới
đây xin trình bày một vài gợi ý ban đầu.
(1)
Nói chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu, trước hết là nói đến phát
triển chủ yếu dựa trên cơ sơ phát huy lợi thế và nguồn lực lớn nhất của đất nước
là con người, là phát triển rất chú trọng đến chất lượng.
Đặt
vấn đề như vậy, có nghĩa là thay đổi căn bản quan điểm hiện có về chiến lược
phát triển.
Con
người được nói tới ở đây vừa là chủ của chính bản thân mình, là chủ của
đất nước, vừa chính mình trực tiếp là lực lượng sản xuất quyết định
nhất. Câu hỏi đặt ra ngay tức khắc là thể chế chính trị, luật pháp nào,
hệ thống giáo dục nào, khung khổ xã hội nào, và những chính sách phát triển kinh
tế - chính trị - xã hội nào cần phải có để có thể tạo ra được và tiếp tục phát
triển được con người như thế. Bao trùm lên tất cả là còn phải duy dưỡng và xây
dựng những giá trị văn hóa nào làm nền tảng đạo đức, tinh thần và tâm hồn của
con người với tính cách như thế ̶
con
người của hành động theo tư duy của tự do và sáng tạo, chứ không phải là con
người công cụ.
Câu
trả lời nếu tìm được, trước hết sẽ có nghĩa phải sẵn sàng và chấp nhận triệt để
nhiều thay đổi căn bản trong thể chế chính trị và trong hệ thống quản lý đất
nước, trong tư duy cũng như trong tìm tòi và thiết kế các chính sách phát triển
đất nước, trong việc tuyên chiến với mọi cái hủ bại, trong việc duy dưỡng và xây
dựng những giá trị tốt đẹp, đặc biệt là đổi mới và phát triển nền giáo dục nước
nhà...
Nói
bao nhiêu cũng không xuể về chủ đề con người, song nhất thiết cần nhấn
mạnh chế độ chính trị của đất nước phải như thế nào để người dân gắn kết sống
chết với nó bằng tất cả nhiệt huyết yêu nước của mình. Xây dựng một chế độ
chính trị được người dân cảm nhận nó gần như đồng nghĩa với tổ quốc là rất khó,
song nhất thiết phải hướng tới. Không có điều kiện này, ước mơ trở thành
một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại ganh đua được với thiên hạ sẽ chỉ
là ước mơ, càng khó bảo vệ bờ cõi đất nước. Đơn giản, người dân có thể nói:
Tôi không thể hết lòng vì đất nước trong một chế độ tham nhũng!
(2)
Đặt vấn đề như nêu trong điểm (1) là khởi điểm và đồng thời cũng là nền tảng để
đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ của thời đại ngày nay trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.
Quan
điểm này không mới, chiếm vị trí quan trọng trong rất nhiều nghị quyết và chính
sách của Đảng và Nhà nước, nhưng khó trở thành hiện thực vì không có thể chế
phát huy được con người. Suốt 25 năm qua không ít công sức và ngân sách bỏ ra
cho mục tiêu đưa tiến bộ khọc kỹ thuật và công nghệ vào sự nghiệp phát triển đất
nước. Song kết quả cuối là chỉ đạt được hàm lượng khoa học và công nghệ thấp
hoặc thậm chí rất thấp trong sản phẩm làm ra, trong chất lượng các chủ trương
chính sách, trong luật pháp, trong quy hoạch phát triển, trong các quyết định
chiến lược, quyết sách.., cũng như trong bộ máy làm việc của toàn bộ hệ thống
chính trị nói chung và của hệ thống nhà nước nói riêng, trong xây dựng và phát
triển xã hội mới... Kết quả cuối cùng còn là sự lãng phí rất to lớn về tiền
của, công sức, cơ hội và thời gian. Tham nhũng trong đầu tư cho khoa học và công
nghệ không thể nói là nhỏ, càng không nhỏ đối với một nước nghèo như nước ta.
Nhiều
phê bình trong nước và từ nước ngoài nói khâu “R&D” (“Nghiên cứu & Triển
khai”)
của nước ta rất kém. Nhận xét này đúng nhưng không đủ, bởi vì nhận xét này không
nói lên được nguyên nhân chính của tình trạng này là chưa có con người và thể
chế phải có; thậm chí nhận xét này còn bị hiểu thiên lệch là ta làm “R&D”
chưa giỏi và vì ta nghèo!
Tình
trạng “hàm lượng công nghệ thấp” như vừa nêu trên còn do một nguyên nhân khác
rất quan trọng: Đó là chính trị (đúng hơn trong nhiều trường hợp phải nói là
ý đồ chính trị) chứ không phải khoa học và chân lý có tiếng
nói quyết định. Sắp tới cần làm sao cho dân chủ và người tài có chỗ đứng phải có
trong sự nghiệp phát triển đất nước.
(3)
Chuyển sang giai đoạn phát triển mới nhất thiết phải cải cách hệ thống giáo dục
và đào tạo.
Đòi
hỏi phải cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo hầu như được sự nhất trí rộng rãi
trong cả nước. Vấn đề còn đang tranh cãi là cải cách theo hướng nào, tiêu chí
nào. Đề nghị trực tiếp tham khảo ý kiến các bên hữu quan để có sự đánh giá riêng
của mỗi người và cùng nhau tranh luận cho sự lựa chọn phương án tối ưu nhất cho
đất nước.
Phương
án cải cách định lựa chọn nhất thiết phải tuân thủ mục tiêu đào tạo, đó là:
hình thành và phát huy con người hành động theo tư duy của tự do và sáng tạo,
không phải là con người công cụ.
Sự
nghiệp cải cách này cũng phải tiến hành từng bước và liên tục với một kế hoạch
được thiết kế sao cho có thể vừa đáp ứng ngay những đòi hỏi bức xúc của phát
triển và vừa phục vụ cho sự phát triển lâu dài và bền vững của đất nước. Cải
cách như thế sẽ là sự nghiệp của cả thập kỷ 2020 và sau nữa, phải rất triệt để,
nhưng cũng không thể nóng vội được.
Chỉ
xin lưu ý, nhiệm vụ này là của cả nước chứ không thể chỉ là của riêng ngành giáo
dục và đào tạo, bởi vì tính chất cải cách giáo dục và đào tạo bao gồm và liên
quan trực tiếp đến nhiều lĩnh vực khác của toàn bộ đời sống đất nước. Nói một ví
dụ đơn giản là không thể tiến hành cải cách này trong tình hình còn đầy rãy
những hiện tượng bằng thật không ăn nhằm gì. Hiện nay có quá nhiều trường hợp
bằng thật bị thải loại và thua bằng giả. Thực tế tại các quốc gia cũng cho thấy
không thể tiến hành cải cách giáo dục một cách đích thực nếu thể chế chính trị
và xã hội của quốc gia ấy không nghiêm khắc chống lại những giá trị trái ngược
với những mục tiêu một nền giáo dục tiên tiến phải theo đuổi.
Điều
xin đặc biệt nhấn mạnh là cải cách giáo dục và đào tạo thành công trong thập kỷ
2011-2020, sẽ quyết định tương lai của đất nước trong thế kỷ 21, chứ không phải
sự nghiệp công nghiệp hóa như đang làm. Thậm chí còn phải nói sự nghiệp cải cách
giáo dục và đào tạo cần bắt đầu từ một điểm sơ khởi: không nói dối!
(4)
Phải đánh giá lại, quy hoạch và thiết kế lại kết cầu hạ tầng vật chất, kỹ thuật,
pháp chế và xã hội; riêng phát triển kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật cần phải
đi song song hoặc cố đi trước một bước quá trình phát triển của đất nước; tất cả
phải đạt được bước trước chuẩn bị cho bước sau.
Có
thể nói các “thắt cổ chai” đã trầm trọng tới mức những năm gần đây bắt đầu đẩy
lùi sự phát triển kinh tế - nhất là về chất lượng và tính hiệu quả của nó, nhìn
chung là đẩy lùi sự phát triển của đất nước. Kinh tế, sơn hà xã tắc của một quốc
gia nhất thiết phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật và một thể
chế luôn luôn được hoàn thiện làm giá đỡ.
Không
thể không rùng mình nếu đối chiếu, so sánh đòi hỏi này với thực trạng hiện nay
của đất nước. Trong đời sống hàng ngày đầy rãy những hiện tượng từ bất cập,[56] tác trách, đến sa đọa... Về một số phương
diện nhất định, chính thể và xã hội nước ta thực sự đang xuống cấp nghiêm trọng!
Ngày càng nhiều hiện tượng tha hóa đến mức đồi bại, đối với bên trong thì làm
mất kỷ cương phép nước, lòng dân ly tán; đối với bên ngoài thì không giữ được
thể diện quốc gia và làm yếu vị thế đất nước, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia bị xâm phạm.
Trong
cuộc sống đất nước năm này qua năm khác có biết bao nhiêu sự việc khác nhau gây
bức xúc lớn như thế, dồn nén lại thành câu hỏi: Chế độ Đảng đang xây dựng cho
đất nước thực chất là chế độ gì?!
Đảng
Cộng Sản Việt Nam nắm giữ vai trò lãnh đạo đất nước nhất thiết cũng phải tự hỏi
mình như vậy, để nhìn lại tất cả, nhất là để qua đó nhận biết khoảng cách giữa
những gì Đảng đã cam kết với đất nước và thực tế đang diễn ra trong cuộc sống.
(5)
Phải đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Đây là một quá trình đau đớn, gian khổ,
nhưng tất yếu phải làm.
Chữ
nói về câu chuyện này đã mòn, song phải thừa nhận chưa có chuyển biến. Những vấn
đề nêu trong các điểm từ 1 - 4 bên trên đã nêu ra được một số nguyên nhân, nhưng
chắc chắn chưa đủ. Cần nghiên cứu công phu để tìm ra giải pháp.
Trước
mắt nên bỏ cách tư duy “kinh tế GDP” tỉnh, tạm thời đặt sang một bên vấn đề tỷ
trọng các khu vực kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) trong phạm vi tỉnh
để đánh giá tỉnh đó tiến bộ hay thụt lùi, mà nên đo lường bằng kết quả thu nhập
của người dân, chất lượng cuộc sống của họ, khả năng cạnh tranh đích thực của
các sản phẩm của tỉnh, kết quả cạnh tranh đạt được, chuyển đổi cơ cấu đầu tư
theo hướng tập trung vào các sản phẩm tỉnh có lợi thế nhất, chuẩn bị cho những
sản phẩm mới tỉnh có lợi thế lớn theo cách nhìn dài hạn... Cấp quốc gia cũng
phải làm như vậy.
Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế phải ưu tiên nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm chiếm lĩnh và
mở rộng thị trường nội địa còn rất rộng của nước ta cho sản phẩm của ta, đảo
ngược hẳn tình hình thị trường nội địa nước ta hiện đang bị sản phẩm nước ngoài
nắm giữ phần lớn. Đòi hỏi này hoàn toàn không có gì liên quan đến tư duy “tự
cung tự cấp” hoặc “thay thế nhập khẩu”, bởi lẽ nước ta đã hội nhập kinh tế thế
giới và thị trường nước ta là thị trường mở.
Để
thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế, có thể tạm thời chấp nhận chỉ số tăng
trưởng thấp trong một số năm nhất định, nếu bước đi này đem lại chất lượng tăng
trưởng tốt hơn và mở đường cho sự phát triển năng động mới tiếp
theo.
Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của nước ta trong thập kỷ 2011-2020 nhất thiết phải tính đến
thực tế ngay sát nước ta, tại khu Buong Thatluong liền kề con đường Kaysone
Phomvihane ở Vientiane đã manh nha dự án một China Town 1600 ha – (có tin nói
nhân dân Lào đang phản đối), ở Campuchia cũng có tình hình tương tự, rồi đến các
dự án thủy điện trên sông Mekong – (có tin đồn bao gồm cảmục đích
nhằm luyện nhôm cho việc khai thác bô-xít ở Lào)… Ngay trên đất nước ta cũng
đang xuất hiện khu công nghiệp 800ha do Thâm Quyến xây dựng tại An Dương – Hải
Phòng và bao nhiêu vấn đề khác nữa do cái “công xưởng thế giây ra trực tiếp đối
với nước ta, hàng vạn người Trung Quốc dưới dạng lao động đi theo công trình
đang thâm nhập khắp nơi vào nước ta, kể cả trên Tây Nguyên... Giả thiết rằng những dự án này sẽ
được thực hiện, kinh tế và an ninh của nước ta sẽ đứng trước những vấn đề gì?
Đối sách của nước ta?
Trên hết cả,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế với mục tiêu mở đường đi vào một giai đoạn phát triển
mới trong bối cảnh quốc tế mới cần được xem là xắp xếp lại giang sơn đất
nước! Nhiệm vụ này bao
gồm nhiều việc hệ trọng phải làm. Chẳng những phải sớm hình thành được ý đồ
chiến lược phát triển, mà còn phải quy hoạch được các quá trình phát triển các
lĩnh vực, trong đó đặc biệt quan trọng là chiến lược và quy hoạch phát triển kết
cấu hạ tầng với chức năng mở đường và làm nền tảng cho sự nghiệp phát triển đất
nước. Những lúng túng hiện nay trong quy hoạch phát triển trên các lĩnh vực như
giao thông vận tải, năng lượng... là những ví dụ cho thấy việc quy hoạch phát
triển khó và yếu kém như thế nào! Ngay trước mắt, trong vòng 10 - 20 năm tới sẽ
phải dành thêm khoảng 15 – 20% đất đai cho phát triển hệ thống giao thông vận
tải và giải quyết vấn đề đô thị hóa; công việc này không quy hoạch có luận cứ
xác đáng và xúc tiến từ bây giờ, hệ quả sẽ ra sao? Chắc chắn không thể tiến hành
theo kiểu sáp nhập Hà Tây vào Hà Nội và tư duy nhiệm kỳ.
Ngay
trước mắt là việc cần loại bỏ các tập đoàn và doanh nghiệp thua lỗ. Cơ cấu lại
và chỉ cần giữ một số tập đoàn kinh tế nhà nước thiết yếu với nguyên tắc
không được kinh doanh trái nghề.[57] Nhà nước mạnh mẽ hậu thuẫn phát huy thế
mạnh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đổi mới cơ cấu kinh tế nhất thiết phải tìm
cách vô hiệu hóa sự câu kết giữa quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị, thực
hiện công khai minh bạch.[58]
Có
lẽ không nên bám lấy mục tiêu hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020 với bất cứ
giá nào, vì điều này vừa không hiện thực, vừa trở nên không quan trọng nữa. Thậm
chí làm theo các kế hoạch công nghiệp hóa hiện hành nếu dẫn đến kết cục năm 2020
nước ta sẽ trở thành cường quốc xi-măng, thép thô và bô-xít thì sẽ đồng nghĩa
với tự sát. Nhất thiết cần tìm cách đảo ngược xu thế phát triển kinh tế thượng
nguồn.
Mục
tiêu chiến lược nên chọn là vào năm 2020 sẽ hoàn thành việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nước ta sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu như đã trình bày trên,
gắn với đổi mới thể chế chính trị, để từ đó mở ra cho nước ta một giai đoạn phát
triển mới.
Nếu
trong vòng 10 năm, từ nay đến năm 2020, mà thực hiện được mục tiêu chuyển dịch
cơ cấu kinh tế như vậy, thì đó là một thành tựu kì diệu có tính bước ngoặt như
đổi mới năm 1986 – vì điều này sẽ chặn đứng khả năng nước ta rơi tiếp vào tình
trạng lạc hậu, lệ thuộc, sẽ ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ và nô dịch, sẽ mở ra cho đất
nước con đường đi vào một giai đoạn phát triển mới.
Thiết
nghĩ ngay từ hôm nay, quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước cần nhằm
vào mục tiêu lâu dài là từng bước xây dựng nên một nền kinh tế hiện đại dựa trên
phát huy lợi thế lớn nhất của đất nước là con người, trí tuệ, bản lĩnh của Việt
Nam - nghĩa là xây dựng một nền kinh tế của một quốc gia dựa trên một dân tộc có
trí tuệ.
V. Phần kết
Nhìn
lại, yếu tố nổi bật nhất của 25 năm đổi mới là dân chủ. Có thể nói: thừa nhận
đổi mới là kết quả của thừa nhận dân chủ. Thành tựu đạt được của đổi mới trước
hết là nhờ dân chủ: trí tuệ và nguồn lực được cởi trói, được phát huy – từ cơ
chế bao cấp chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường.
Hiển
nhiên ai cũng thấy mức độ dân chủ đạt được ở đây còn khiêm tốn và chủ yếu mới
chỉ trong lĩnh vực kinh tế. Song cái dân chủ còn khiêm tốn ấy đã
đủ sức gần như trong một đêm[59] xóa bỏ cơ chế kinh tế bao cấp rất nặng nề ở nước ta
hồi ấy và bứng đi không ít cái thể chế ăn theo với nó, đảo ngược được tình hình
nguy khốn của đất nước lúc đó, mở đường cho đi tới hôm nay.
Vì vậy, còn có thể
nói dân chủ ̶ dù là ở mức độ còn
khiêm tốn ấy – là thành tựu bậc nhất của 25 năm đổi
mới. Và trong giai
đoạn phát triển mới của đất nước, dân chủ sẽ là chìa khóa mở cửa giải phóng con
người với tính cách vừa là chủ bản thân, là chủ đất nước, vừa là nguồn lực lớn
nhất của đất nước cho một Việt Nam cường thịnh.
Song
có một sự thật khác: Thành tựu bậc nhất ấy của 25 nămđổi mới còn
bị xem là một nguy cơ diễn biến hòa bình, vì thế 25 năm qua có không ít việc làm
ngăn cấm, kìm hãm, trấn áp dân chủ, làm chậm bước tiến của đất nước, bỏ lỡ nhiều
cơ hội lớn. Đi vào giai đoạn phát triển mới của đất nước, phải thẳng thắn đối
mặt với sự thật này.
Ngày
nay chỉ có giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ mới có thể tạo ra nền tảng thực
hiện được đoàn kết, hòa hợp và hòa giải dân tộc. Đấy chính là con đường mở mang
dân trí, phát huy con người Việt Nam, là nguồn sức mạnh và sáng tạo vô tận, để
làm nên một Việt Nam hạnh phúc, phồn vinh. Đó chính là phương hướng xây dựng một
chế độ chính trị mà người dân có thể cảm nhận nó gần như đồng nghĩa với Tổ quốc,
tạo dựng một nền nội trị vững chãi bất khả xâm phạm của đất nước, khơi dậy hào
khí dân tộc. Chỉ một khi người dân cảm nhận được chế độ chính trị này là của
mình, vì mình, là lực hậu thuẫn vô song cho sự phấn đấu của mình, là người gắn
kết toàn dân tộc và khơi dậy mọi tinh hoa gìn giữ và làm rạng rỡ giang sơn gấm
vóc, là người đưa đất nước dấn thân vào trào lưu tiến bộ chung của nhân loại, là
niềm tự hào vì nó mà mình phấn đấu, là điều thiêng liêng vì nó mà mình sẵn sàng
xả thân gìn giữ, là niềm tự hào của nước Việt Nam… - chỉ khi xây dựng được một
chế độ chính trị làm nên những giá trị như thế nó mới hòa nhập được vào làm một
với tổ quốc, nó mới được người dân cảm nhận gần như đồng nghĩa với tổ quốc. Một
quốc gia có chế độ chính trị và tổ quốc là một, quốc gia ấy là vô địch! Không
một chủ nghĩa nào có thể thay thế được sức sống của sự hòa nhập làm một như vậy
của chế độ chính trị và tổ quốc! Một chế độ chính trị như thế sẽ giải phóng mạnh
mẽ nhất trí tuệ và nghị lực Việt Nam. Một chế độ chính trị như thế - đến lượt nó
– sẽ nâng lên giá trị và sự thiêng liêng của tổ quốc, nâng lên vị thế của quốc
gia trong cộng đồng thế giới. Hơn lúc nào hết dân tộc Việt Nam ta cần có sức
sống này! Tinh thần yêu nước của người Việt Nam ta ngày nay phải được xây dựng
từ lẽ sống này! Văn hóa và giáo dục Việt Nam cần hướng vào xây dựng cái đích
này. Ngày nay kho tàng trí tuệ của nhân loại và của dân tộc mình hoàn toàn cho
phép chúng ta khai phá con đường xây dựng cho đất nước một chế độ chính trị như
thế. Rất đáng để thế hệ này sang thế hệ khác ngay từ bây giờ tiếp nối nhau xây
dựng nên cho tổ quốc của chúng ta một chế độ chính trị như thế.
Giương
cao ngọn cờ dân tộc dân chủ như thế, nước ta có thể chung sống hòa bình và hợp
tác hữu nghị được với Trung Quốc, bảo vệ được bờ cõi và gìn giữ được ta là ta
trong tình thế mới, đối phó được với những thách thức mới trong bối cảnh thế
giới ngày nay. Giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ như thế, Việt Nam sẽ có bạn bè
là cả thế giới tiến bộ - kể cả trong lòng nhân dân Trung Quốc – hậu thuẫn cho
mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Giương cao ngọn cờ dân tộc dân
chủ như thế, Việt Nam đồng thời sẽ có khả năng cùng tiến bước trong trào lưu
chung của nhân loại tiến bộ, dấn thân làm tròn trách nhiệm là thành viên bình
đẳng trong cộng đồng các quốc gia trên thế giới.
Giai
đoạn phát triển mới này của đất nước đòi hỏi Đảng Cộng Sản Việt Nam phải tự đổi
mới chính mình, giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ lãnh đạo nhân dân xây dựng và
bảo vệ đất nước, trừ phi Đảng muốn tự mình vứt bỏ vai trò lãnh đạo của mình để
trở thành đảng cai trị!
♦
Tập đoàn kinh tế
nhà nước, nền “kinh tế GDP tỉnh” và tư tưởng nhiệm kỳ là 3 sản phẩm và là
hệ quả của hệ thống chính trị hiện thời. 3 sản phẩm này cộng sinh và công hưởng
với nhau đang ngày càng trở thành cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa của hệ thống
chính trị - xã hội nước ta. Tham nhũng, chạy chức chạy quyền và nhóm lợi
ích và mọi tha hóa khác chủ yếu từ đây mà ra. Quốc nạn nội xâm
này lũng đoạn nghiêm trọng đời sống mọi mặt của đất nước còn đáng sợ hơn ngoại
xâm. Sự phát triển của đất nước đòi hỏi sớm khắc phục tình trạng này. Có làm
được hay không? – Đấy là câu hỏi sống còn đối với vận mệnh đất nước.
♦
Các nhiệm vụ phải
thực hiện trong thập kỷ thứ hai của thế kỷ này đạt kết quả ra sao, sẽ quyết
định: Việt Nam hoặc sẽ dấn sâu hơn nữa vào con đường trở thành một quốc gia
nghèo hèn, lệ thuộc, hay là sẽ bước hẳn vào ngả đường mới, sẽ trở thành một nước
phát triển đúng với tinh thần nước mạnh dân giàu, xã hội dân chủ công bằng văn
minh.
Tình hình và nhiệm
vụ đất nước phải đối mặt trong thập kỷ tới này đặt ra vấn đề cải cách chính trị
và có con người trong hệ thống chính trị ngang tầm trở thành điều kiện tiên
quyết cho việc mở ra giai đoạn phát triển mới. Cải cách chính trị trở thành chìa
khóa của mọi giải pháp. Nội dung cơ bản của cải cách chính trị là khai phá
con đường xây dựng nên một chế độ chính trị mà người dân cảm nhận được nó gần
như đồng nghĩa với Tổ quốc như đã trình bày trên, là cố sao thực hiện được những
bước đi đầu tiên trên con đường này, để trong vòng thập kỷ thứ hai của thế kỷ
này đất nước vượt qua được mọi thách thức, tạo ra sức mạnh đi vào giai đoạn phát
triển mới. Mọi việc chỉ có thể bắt đầu từ quá trình dân chủ hóa. Tên gọi chính
xác của quá trình cải cách chính trị này cũng là
dân chủ
hóa.
Xin
đặc biệt nhấn mạnh, để quá trình dân chủ hóa được thực thi có kết quả, tiết kiệm
xương máu và dứt khoát không dẫn đến đổ vỡ, cần có trí tuệ và kỷ cương rất cao
với tinh thần dám hy sinh mọi lợi ích riêng, dám vượt lên mọi yếu kém riêng, để
hoàn toàn một lòng vì dân vì nước của đội ngũ lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà
nước. Trước hết, nếu có ý chí như vậy, đội ngũ lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà
nước sẽ phát huy được trí tuệ và ý chí trong Đảng và của cả nước, nhờ đó sẽ có
đủ trí tuệ và mọi điều kiện cần thiết trong tay để hoàn thành nhiệm vụ cực kỳ
khó khăn này. Đảng đang nắm quyền lãnh đạo đất nước, cho nên đội ngũ lãnh đạo
cao nhất của Đảng và Nhà nước mang trên vai mình trách nhiệm không thể thoái
thác về thành / bại của quá trình dân chủ hóa này.
Dân
chủ hóa là nguồn lực tạo ra nội lực bất khả xâm phạm cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước và tập hợp sự hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ cho sự nghiệp
này. Dân chủ hóa vì vậy là dân tộc tất thắng, là đất nước tất thắng!
Cho
nên, nếu đặt vấn đề dân chủ hóa là điều kiện sống còn và phát triển của đất
nước, tập thể lãnh đạo Đảng và Nhà nước sẽ tìm được câu trả lời và các giải
pháp. Nói đơn giản: Dân chủ hóa như vậy thực sự là một cuộc cách mạng từ trên
xuống rất đáng mong muốn, là con đường an toàn nhất và cũng khả thi nhất cho
nước ta tại bước ngoặt lịch sử hiện nay, là bước đi đầu tiên trên con đường xây
dựng chế độ chính trị gần như đồng nghĩa với tổ quốc. Vì những lẽ vừa trình bày,
rất đáng dành cho quá trình dân chủ hóa đất nước trí tuệ và tâm huyết nhiệt
thành nhất của mỗi người Việt Nam yêu nước, trước hết là của các công dân mang
thẻ đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Thách
thức lớn nhất của dân chủ hóa không phải là diễn biến hòa bình, mà là cám dỗ
chính trị rất lớn của quyền lực và lợi ích cá nhân; lịch sử hiếm khi ghi lại
được các chiến công đánh bại cám dỗ này. Nhưng cũng xin nói ngay: Để cho cái dốt
và cái vô đạo đức hoành hành, hoặc cuồng tín hay bảo thủ.., thì chỉ có một đường
dẫn đến đổ vỡ mà thôi! Vậy chỉ còn cách đừng quay lưng lại phía mặt trời để vượt
qua cái bóng của chính mình.[60]
♦
Đất nước và dân tộc
ta đứng trước bước ngoặt lịch sử trong bối cảnh kinh tế thế giới đang có những
chuyển biến sâu sắc mang tính hệ thống với nhiều thách thức mới, cục diện chính
trị thế giới đi vào đa cực. Nên nhìn nhận đấy là thế giới cho ta cơ hội xác định
một con đường phát triển mới dựa trên xây dựng một dân tộc có trí tuệ, độc lập
tự chủ vươn lên, hợp tác với cả thế giới, không cần và không phải đi với một
bên, chống một bên! Mặt khác, cục diện thế giới như đang diễn ra sẽ giằng xé gay
gắt nước ta trên mọi phương diện, nhiều nguy cơ đang trực tiếp uy hiếp sự toàn
vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, tương lai phát triển của đất nước. Trước tình
hình như vậy, không có nội lực bắt nguồn từ trí tuệ, bản lĩnh và thực lực của cả
nước một lòng là không ngửng mặt lên được. Dân chủ là cội nguồn của nội lực này.
Sự lựa chọn của đất nước dứt khoát chỉ có thể là vượt lên mọi thách thức, nắm
lấy mọi cơ hội phát triển thực lực của mình để trở thành đối tác được tất cả các
bên tôn trọng. Muốn được như vậy, nước ta cần phấn đấu trở thành cầu nối của các
nền kinh tế lớn. Một thể chế chính trị phát huy được trí tuệ và bản lĩnh Việt
Nam sẽ thực hiện được điều này.
Đại
hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng Sản Việt Nam có trách nhiệm rất lớn đối
với đất nước.
Hà
Nội, mùa Đông 2009
Tham khảo
BBC, 2009a, Tham
vọng xa bờ của Trung Quốc, 11 tháng 10
Blumenthal, Dan, 2009, "The
Erosion of U.S. Power in Asia", Far Eastern Economic Review, tháng
5.
Cao Huy Thuần,
2009, “An
ninh”, Thời Đại Mới 17, tháng 11.
Cẩm Văn Kính, 2009, "Phó
thủ tướng Hoàng Trung Hải: Không thủy điện nào không có quy hoạch" Tuổi Trẻ
10 tháng 1.
Clinton, Hillary, 2009, Remarks at the
ASEAN Regional Forum, 23 tháng 7.
Đảng Cộng Sản
Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
Dillon, Dana, và John J. Tkacik Jr (2005-2006), China’s Quest for
Asia, Policy Review.
Feigenbaum, Evan A., 2004,"China's
Military Posture and the New Economic Geopolitics", Rice
University.
Ferguson, Niall, 2009, “The
decade the world tilted east”, Financial Times, 27 tháng
12.
What Were They Thinking?
The Role of
Economists in the Financial Debacle", American
Interest, tháng 9-10. , 2009, “
Fukuyama, Francis,
2009a, "Thinking
About the Future of American Capitalism", American Interest,
13 tháng 3
Goldman, Merle,
2009, "China’s
Beleaguered Intellectuals", Current History, tháng 9.
Hynes, Major
H.A., 1998, China: the Emerging
Superpower, Department of Defence (Canada)
Krugman, Paul,
2009, “How
Did Economists Get It So Wrong”, New York Times, 2 tháng
9.
Lam, Willy, 2009, "Beijing
Learns to be a Superpower", Far
Eastern Economic Review, 1 tháng 5
Lam, Willy,
2009b, China's
Quasi-Superpower Diplomacy: Prospects and Pitfalls, Washington
D.C.: Jamestown Foundation.
Luce, Edward, 2009, “Obama
urged to fix trade policy vacuum”, Financial Times, 9 tháng
11.
Obama, Barack, 2009, Remarks
by the President at the U.S./China Strategic and Economic Dialogue, White
House, 27 tháng 7.
Marciel, Scot,
2009, Maritime
Issues and Sovereignty Disputes in East Asia, Thượng viện Mỹ, ngày 15 tháng
7
McCain, John, 2009 Bài
nói chuyện của Thượng Nghị sỹ John McCain tại Học viện Ngoại giao Việt Nam,
7 tháng 4.
Minh Quân, 2009, "Trên
cả sự vô cảm", Sài Gòn Tiếp Thị, 9 tháng 11.
Ngô Vĩnh Long, 2007, “Chiến lược
hải quân của Trung Quốc và hàm ý của nó đối với khu vực Biển Đông”, Thời
Đại Mới 11, tháng 7.
Nguyễn Thành Sơn, 2009, "Ngành
than sau 15 năm phát triển: 'được' 3, 'mất' 7", Tuần Việt Nam, 14
tháng 11.
Nguyễn Trung, 2006, "Thời cơ Vàng của
Đảng Ta" .
Nguyễn Trung:
“Mô hình tập đoàn nhà nước và mối lo vượt tầm kiểm soát” và Cải cách tập đoàn nhà nước và
một chữ "Dám".
Nguyễn Trung, 2007a “Suy nghĩ về
phát triển nguồn nhân lực ở nước ta”, Viet-studies, 10 tháng
11.
Nguyễn
Trung, 2007b, “Thân
phận công dân thế giới hạng hai”, Viet-studies, 21 tháng
8.
Nguyễn
Trung, 2008a, “Ngã ba
2007”, Viet-studies, tháng 1.
Nguyễn Trung, 2008b, “Chàng
trai 22 tuổi không thể sống trong bộ quần áo thiếu niên", Tuần Việt
Nam, 31 tháng 10.
Nguyễn Trung, 2009a, “Những
bất lợi lớn trong khai thác bô-xít tại Tây Nguyên”, Diễn Đàn, 27
tháng 1.
Nguyễn Trung, 2009b, “Biển Đông
hòa bình hay nổi sóng?”, Thời Đại
Mới 17, tháng 11.
Phạm Duy Hiển, 2009, "Điện hạt nhân rất kén người!", Bee.net, 5 tháng 11.
Phùng Liên Đoàn, 2009,“Điện
hạt nhân sẽ đắt gấp ba?” Vietnamnet, 12 tháng 11.
Scher, Robert, 2009, Maritime
Issues and Sovereignty Disputes in East Asia, Thượng viện Mỹ,
ngày 15 tháng 7
Strategy Page, 2007, China Proposes
to the US - Split the Pacific With Us, 17 tháng 8.
Tấn Đức, 2009, “Lại phải trả giá
vì đầu tư thủy điện ồ ạt”, Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn 13 tháng
11.
Tkacik, John, 2007a, China’s
Superpower Economy, Heritage Foundation.
Tkacik, John, 2007b, A
Chinese Military Superpower? Heritage Foundation.
Trần Đức Nguyên, 2009,“Khám
sức khỏe kinh tế Việt từ chỉ số ICOR”, Tuần Việt Nam, 15 tháng
10.
Trần Quang Cơ, 2005, “Hồi
ức và suy nghĩ”, Diễn Đàn, tháng 5.
Trần Sơn Lâm, 2009, “Điện
hạt nhân: Không phải việc của riêng ngành điện”, Vietnamnet, 14 tháng
11.
US News and World Report, 2007, Now,
From China, the World's Biggest Company.
5
tháng 11.
VietnamNet: 2009, Do Lộ, vì sao nên nổi?, 7 tháng 7.
VietnamNet, 2009, Bị phạt tiền vì dám chửi đuờng
xấu
Vietnamnet, 2008, Việt Nam tụt 2 bậc trong
xếp hạng cạnh tranh toàn cầu, 9 tháng 10.
Vũ Quang Việt, 2009, “Khủng hoảng
kinh tế Việt Nam 2008: Sự sai lầm về chính sách và vai trò của tập đoàn kinh tế
quốc doanh”, Thời Đại
Mới 17, tháng 11.
Webb, Jim, 2009, Opening
Remarks of Senator Jim Webb at the Senate Foreign Relations Committee Hearing on
Maritime & Sovereignty Disputes in Asia, Thượng viện Mỹ, 15 tháng
9.
Chú thích
[1] Willy Lam (2009)
[2] Đặc biệt là sự thừa kế trên thị trường bất động sản,
trên thị trường xe hơi và nhiều thị trường quan trọng khác đang kéo theo sự suy
sụp của nhiều ngành kinh tế khác. Tình trạng nợ nần lớn của cá nhân, công ty và
ngân sách quốc gia khiến cho sức mua khó hồi phục. Hơn nữa sự điều chỉnh cơ cấu
kinh tế bắt buộc phải lựa chọn thường gắn theo với những đổ vỡ và cái giá phải
trả không thể tránh khỏi. Thậm chí có ý kiến coi đây là 4 nguyên nhân có thể làm
nảy sinh khủng hoảng mới.
[3] Thậm chí có người gọi khoa kinh tế học hiện nay là
“kinh tế học của đổ vỡ”, coi Alan Greenspan - nguyên chủ tịch Fed - là một trong
những tội phạm chính của khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay! Tuy nhiên sẽ là
xuyên tạc sự thật hay ngộ nhận nực cười nếu nghĩ rằng kinh tế thế giới đang quay
đầu hướng về chủ nghĩa xã hội – như một số người cố tình nhận định như vậy...
[4] Riêng tại Mỹ có rất nhiều ý kiến phân tích những yếu
kém và những thiệt hại giảm thiểu khả năng cạnh tranh của Mỹ trong quá trình
toàn cầu hóa – trong thương mại, trong thu hút đầu tư, trong thực hiện
“outsourcing”...
[5] Chủ yếu do những thất bại của hai nhiệm kỳ tổng thống
George W. Bush vì tham vọng quá lớn trong chiến lược toàn cầu và do sự phá sản
của chủ nghĩa tân tự do dẫn tới cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ hiện nay. Cuộc khủng
khoảng này âm ỷ từ lâu và bùng nổ với sự sụp đổ của ngân hàng Lehman Brothers
ngày 14-09-2008, sau đó lan tỏa thành quy mô thế giới.
[6] Luce (2009)
[7] Niall Ferguson (2009) và nhiều sách báo khác liên
quan của các tác giả: Andrew Bacevich, Noam Chomsky, Timothy P. Carney, Willy
Lam, John Tkasick, Francis Fukuyama, Martin Jacques…
[8] Hatoyama hiện nay đang gặp khó khăn vì tai tiếng của
một phụ tá.
[9] Xem Blumenthal (2009). Chú ý: Tháng 2-1995 hải quân
Philippines bị hải quân Trung Quốc đánh bại trong việc đòi lại đảo San Hô
Mischief (Vành Khăn – thuộc Trường Sa), Philippines yêu cầu hải quân Mỹ can
thiệp, nhưng bị từ chối với lý do đảo này nằm ngoài phạm vi Hiệp ước phòng thủ
chung hai nước ký năm 1951, Mỹ chỉ ra tuyên bố phản đối Trung
Quốc
[10] Tham khảo phát biểu của Scot Marciel và Robert Scher,
Bộ quốc phòng Mỹ, tại cuộc điều trần trước Thượng viện ngày 15-09-2009 và phát
biểu của thượng nghị sỹ Jim Webb tại cuộc điều trần
này.
[11] Hillary Clinton
(2009)
[12] Barack Obama (2009)
[13] Hynes (1998), Lam (2009)
[14] Tkacik (2007a, b), Dillon và Tkacik (2005-2006)
[15] Có tài liệu nói trong tổng số 2100 tỷ USD dự trữ của
Trung Quốc có 35% nằm trong dạng dự trữ bằng đồng USD và 25% là trái phiếu và
các giấy tờ thế chấp; nghĩa là gần 1/3 tổng dự trữ của Trung Quốc là do Mỹ nợ.
Có lẽ thông tin này chính xác hơn.
[16] Tuy nhiên về quy mô sản xuất dầu lửa,
PetroChina vẫn chỉ bằng một phần ba hay một phần hai so với các
tập đoàn dầu khí của Anh và Mỹ như EXXON, BP.... Song chính thực tế này
đang nói lên chính sách huy động vốn rất quyết liệt của của chính phủ Trung Quốc
cho PetroChina và phản ánh cái “đói dầu” cực kỳ gay gắt của quốc gia này. Xem U.S. News &
World Report (2007)
[17] Ferguson (2009), Goldman (2009): “...Chính quyền
Trung Quốc hiện nay vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Ðảng Cộng sản... Một thế hệ
mới các lãnh tụ Đảng xuất hiện, dẫn đầu là cựu Thị trưởng Thượng Hải Giang Trạch
Dân... ngay sau khi lên nắm quyền đã thẳng tay đàn áp những người biểu tình ủng
hộ dân chủ tại Quảng trường Thiên An Môn ngày 4 tháng Sáu năm 1989. Tập đoàn
lãnh đạo đó – và đặc biệt thế hệ các lãnh tụ hiện thời, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Cẩm Ðào cùng các cộng sự viên của ông ta, những kẻ lên nắm quyền vào năm 2002 –
đang tìm cách giáo huấn trở lại cán bộ Đảng để họ thấm nhuần hệ tư tưởng
Lê-ni-nit. Trong khi củng cố năng lực của chính quyền nhằm đối phó với những bất
bình đẳng ngày càng tăng và tệ nạn tham nhũng tràn lan, những kẻ lãnh đạo thuộc
thế hệ trẻ của xứ sở ấy đang ra sức tái tập trung quyền lực chính trị...” Cao
Huy Thuần (2009)
[18] Lam (2009b)
[19] Xem (1) Strategy Page (2007), (2) tường thuật của
Taipei Times 22.02.09 về chuyến đi thăm Trung Quốc của đô đốc Mỹ Timothy
Keating.
[20] Xem Ngô Vĩnh Long (2009), Cao Huy Thuần (VNN, TDM
2009)
[21] Lam (2009b)
[22] McCain (2009): "Giờ đây, công việc khó khăn nhất
bình thường hoá quan hệ đã lùi lại phía sau. Tôi tin rằng, đã đến lúc chúng ta
chuyển từ việc bình thường hoá quan hệ song phương sang hiện đại hoá những liên
kết giữa hai nước cho tương xứng với vị thế ngày càng tăng của Việt Nam ở khu
vực và trên thế giới… Đã đến lúc cần có bước đi mới…Việc tiếp tục củng cố mối
quan hệ giữa hai nước không nên chỉ vì sự chuyển đổi kinh tế chưa từng thấy của
Việt Nam và tiến bộ vượt bậc trong quan hệ giữa hai nước trong hai thập kỷ qua,
mà còn vì sự chuyển dịch sức mạnh kinh tế mang tính lịch sử từ phương Tây về
châu Á…Và trong kỷ nguyên này, tôi tin rằng Việt Nam sẽ đóng một vai trò hết sức
quan trọng”. Thông điệp này của McCain nói lên điều gì?
[23] Chỉ riêng viện trợ ODA năm 2009 đạt mức cao nhất từ
xưa đến nay (8 tỷ USD) trong lúc các nước cấp viện trợ chưa ra khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế hiện nay đã nói lên điều này.
[24] Tiếp xúc với nhiều người Việt ở nước ngoài nổi lên
một nhận xét khá phổ biến: Khi còn
chính quyền Sài Gòn với cả triệu quân đầy vũ khí trong tay mà còn thua cộng sản,
mấy tổ chức đảng phái này nọ ngoài này nhằm nhè gì! Đánh võ mồm! Có những người
của các đảng phái này chống Hà Nội quyết liệt, song không ít trong số họ vì
những động cơ riêng tư hoặc vì những mục đích vụ lợi rõ rệt. Số đông người Việt
ở nước ngoài thuộc thế hệ chiến tranh không muốn dính líu với những đảng phái
này, số thế hệ trẻ không biết đến chiến tranh hầu như không quan tâm đến những
thứ như thế. Tâm lý số đông người Việt thuộc thế hệ chiến tranh là hận thù cũ
nguôi ngoai dần, muốn đất nước yên ổn để gìn giữ quan hệ ruột thịt họ hàng hoặc
có điều kiện phát triển công việc làm ăn, ví dụ rõ nhất có lẽ là trường hợp ông
Nguyễn Cao Kỳ... Có nhiều trí thức mong muốn đóng góp với đất nước nhưng thấy
trong nước còn nhiều điều chưa chấp nhận được. Tâm lý chung là mong muốn đất
nước có dân chủ, thượng tôn pháp luật và sớm thoát nghèo, rất lo ngại uy hiếp
của Trung Quốc đối với đất nước – một số còn cho rằng nếu làm được như vậy thì
ĐCSVN cũng được!
[25] Khái niệm “không gian sinh tồn” nghe rất lạc hậu, rất
thịnh hành thời Đức quốc xã, ngày nay ít người muốn nói tới; thậm chí ngày nay
có người tin rằng vấn đề này ngày nay đã được giải quyết: các quốc gia thời kỳ
toàn cầu hóa ngày nay không cần phải mở rộng không gian sinh tồn của mình mà vẫn
có thể phát triển – trong chừng mực nhất định ý kiến này là có lý. Song rất tiếc
rằng cuộc sống không biến mất hiện tượng mở rộng không gian sinh tồn, mà chỉ
phát triển thêm các hình thái “mở rộng” khác nhau mà thôi. Toàn cầu hóa
là một hình thái mở rộng như thế. Hình thái “mở rộng” của Trung
Quốc hiện nay là đa dạng nhất, bao gồm cả hình thái xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải
nước khác và các hoạt động khác như các bài trên thế giới viết về chủ nghĩa thực
dân mới Trung Hoa đã phân tích, trong nhiều trường hợp là cách hành xử của Trung
Quốc là “mục tiêu biện minh cho biện pháp” như mọi người đều
biết.
[26] Luce (2009)
[27] Nguyễn Trung (2009b)
[28] Tham khảo các bài báo Trung Quốc gần đây liên quan
đến Biển Đông đã được nhà Trung Quốc học Dương Danh Dy dịch ra tiếng
Việt.
[29] Trần Quang Cơ (2005)
[30] Loại trừ kẻ xấu, dư luận chính đáng trên thế giới
không sao hiểu nổi phản ứng nhu nhược hay sự nhẫn nhục của Việt Nam trước những
sự kiện ngang ngược của Trung Quốc. Luồng dư luận này cho rằng vì ngại sức ép
của Trung Quốc, vì lo rằng phong trào phản đối Trung Quốc sẽ dấy lên phong trào
dân chủ trong nước, nên ĐCSVN không dám huy động nhân dân đấu tranh, không dám
kêu gọi dư luận quốc tế như đã làm thời kháng chiến.
[31] BBC (2009a), Feigenbaum (2004) đề cập đến nguy cơ
Trung Quốc có thể tiếp tục đánh chiếm một số đảo ở Biển Đông mà Mỹ không làm gì
nếu chưa đụng chạm đến lợi ích chiến lược của Mỹ trong toàn vùng. Trong khi đó
không ít báo chí Trung Quốc cho rằng hiện nay là thời cơ tốt nhất để Trung Quốc
thực hiện đường lưỡi bò.
[32] Ví dụ: Năm 2009 ngoại thương Việt Nam nhập siêu 10 tỷ
USD, song riêng nhập siêu từ Trung Quốc khoảng 12 - 13 tỷ USD, nghĩa là toàn bộ
xuất siêu của ta không đủ trang trải cho nhập siêu từ Trung Quốc! Kéo dài tình
trạng này rất nguy hiểm.
[33] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, trang
163.
[34] Nguyễn Trung (2007b, 2008a)
[35] Nền giáo dục nước ta hiện nay nặng về đào tạo con
người công cụ hơn là hướng về đào tạo con người hành động theo tư duy tự
do. Đây có lẽ là vấn đề mấu chốt nhất khiến nền giáo dục nước nhà lạc hậu và
góp phần kìm hãm tương lai phát triển của đất nước.
[36] Trong kinh tế học, người ta gọi hiện tượng các nước
đang phát triển với mọi nỗ lực của nhiều thập kỷ, thậm chí của cả nửa thế kỷ
hoặc lâu hơn nữa mà vẫn không thể trở thành một nước công nghiệp là hiện tượng
“rơi vào cái bẫy nước có thu nhập trung bình”. Có nhiều nước đang phát triển đã
rơi vào cái “bẫy” này. Thái Lan là một ví dụ điển hình của “cái bẫy nước có thu
nhập trung bình”. Trong thế kỷ 20, Thái Lan không bị một cuộc chiến tranh nào
tàn phá, không là thuộc địa của một đế quốc nào, đã đi được 60 năm trên chặng
đường công nghiệp hóa tính từ năm 1949, nhưng ngày nay chưa ai dám nói khi nào
Thái Lan sẽ là một NIC! Đọc thêm Nguyễn Trung (2008b)
[37] Cơ cấu dân số có tỷ lệ người trong tuổi lao động
chiếm quá nửa hoặc gần gấp đôi số người sống phụ
thuộc.
[38] IMF và EIU đánh giá kinh tế Việt Nam năm 2008 lạm
phát là 22,87%, tăng trưởng GDP là 6,23%.
[39] Trần Đức Nguyên (2009)
[40] Trần Đức Nguyên (2009)
[41] Vietnamnet (2008)
[42] Theo thống
kê của Liên Hiệp Quốc năm 2005, mỗi kWh điện tiêu thụ các nước Tây Âu làm ra
trên 3 USD, Hàn Quốc: 2,2 USD, Philippines: 1,9 USD, Thái Lan: 1,5 USD, Trung
Quốc: 1 USD, Việt Nam chỉ có 0,87 USD.
[43] Đó là tình trạng chưa nghiên cứu đầy đủ các vấn đề
theo Luật đòi hỏi; và chưa chuẩn bị xong kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải, xử
lý bùn đỏ nhiễm hoá chất độc hại..; tóm lại là còn rất nhiều câu hỏi quan trọng
chưa được giải đáp thoả đáng về tính khả thi của dự án, tính hiệu quả của dự án,
tác động lâu dài đối với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, an ninh quốc
gia… mà đã triển khai ngay dự án… - tìm đọc các phản biện rất phong phú về vấn
đề này. Xem thêm: Nguyễn Trung (2009a)
[44] Rất khó định nghĩa hay định nghĩa thế nào cũng được
khái niệm “cơ bản trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện
đại”. Cụm từ cơ bản trở thành và cụm từ theo hướng hiện đại
vừa mơ hồ và co giãn tùy ý, vừa mâu thuẫn nhau. Song quan trọng hơn là toàn bộ
khái niệm này thiếu hẳn những tiêu chí và mục tiêu cần đạt được để làm rõ.
[45] Quá trình công nghiệp hóa cho đến nay diễn ra hầu như
dưới dạng một chuỗi các kế hoạch 5 năm của cấp trung ương (các ngành) và của cấp
các tỉnh cộng lại. Rất khó nói rằng những kế hoạch 5 năm này được thiết kế theo
một quan điểm chiến lược công nghiệp hóa xuyên suốt: (1) Quá
trình công nghiệp hóa diễn ra trong thực tế ở cấp trung ương là hoạt động của
các tập đoàn kinh tế nhà nước (phần lớn dưới dạng các tổng công ty 90 và 91) gần
như với tính cách mỗi tập đoàn là một “vương quốc” riêng lẻ. (2) Quá
trình công nghiệp hóa ở cấp tỉnh chủ yếu do “tư tưởng nhiệm kỳ” và quan điểm
“nền kinh tế GDP tỉnh” chi phối, tranh thủ làm được gì làm nấy, gặp gì làm nấy,
không ít tình trạng chồng chéo, trùng lặp, giẫm đạp lên nhau – tỉnh anh có xi măng lò đứng, tỉnh tôi cũng có; tỉnh
anh có nhà máy mía đường, tỉnh tôi không kém tỉnh anh; tỉnh anh có khu công
nghiệp, tỉnh tôi cũng không thua...
[46] Xem thêm Nguyễn Trung (2007)
[47] Hiện nay có tới khoảng 6000 thủ tục hành chính cần
xem xét, gây lãng phí bao nhiêu thời gian, tiền bạc, của cải; Chính phủ đã cam
kết phải bãi bỏ khoảng 30% những thủ tục này trong thời gian ngắn nhất, song
trên thực tế quá trình “bãi bỏ” này đang diễn ra rất chậm. Tác động của các tập
đoàn và các nhóm lợi ích tiếp tục giữ vai trò quyết định trong việc hình thành
các quyết sách kinh tế quan trọng theo chiều hướng cục bộ mạnh ai nấy làm,
tranh thủ cái lợi trước mắt và không quan tâm đến sự phát triển vỹ mô của quá
trình công nghiệp hóa, biểu hiện rõ nhất là kết cấu hạ tầng quốc gia tụt hậu
so với phát triển kinh tế, tiếp tục đi sâu vào kinh tế thượng nguồn và khai thác
tài nguyên đất đai, có quá nhiều quyết định hoặc công trình kinh tế chồng chéo,
trùng lặp hay phi kinh tế.., vân vân...
[48] Riêng Tây Nguyên và các vùng cao khác, các vùng trung
du có ý nghĩa chiến lược đối với sự sống còn và tương lai phát triển đất nước,
cần được bảo tồn và phát triển theo hướng thân thiện với môi trường và bền vững
- nhất là trước tình hình thiên tai ngày càng đa dạng và khốc liệt, tác động của
biến đổi khí hậu ngày càng quyết liệt. Khi diện tính đất đai ngày càng mất đi và
tình trạng nhiễm mặn ngày càng rộng do biến đổi khí hậu, các vùng này sẽ trở
thành các vùng có ý nghĩa sống còn của đất nước. Là một trong các quốc gia chịu
tác động nặng nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu, thế hệ hôm nay có trách nhiệm
rất lớn chuẩn bị cho các thế hệ mai sau.
[49] Xem thêm Tấn Đức (2009)
[50] Xem, chẳng hạn, Phạm Duy Hiển (2009), Phùng Liên Đoàn
(2009), Trần Sơn Lâm (2009)
[51] Xem Nguyễn Thành Sơn
(2009)
[52] Hiện nay Chính phủ đang kêu gọi tiến hành các biện
pháp tăng cường bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với tác động của biến đổi
khí hậu, thế nhưng lại có quá nhiều quyết định kinh tế của chính phủ đi ngược
lại chủ trương này, điển hình là khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, phát triển quá
nhiều thủy điện, mở rộng khai thác khoáng sản, tiếp tục phát triển các ngành
công nghiệp gây ô nhiễm (ví dụ như Huyndai-Vinashin ở Khánh Hòa với công nghệ sử
dụng hạt nix...)...
[53] Trên thực tế, tại một số vùng nông thôn người dân cho rằng đang xuất hiện “tầng
lớp cường hào mới”.
Các bản án
ngày 13/11/2008 của Tòa án Nhân dân TP. Hà Đông (Hà Nội) 33 tháng tù cho 5
người đàn bà nông dân (VietNamet, 2009a) , bị phạt tiền do dám chửi đường xấu ở
Cà Mau (Vietnamnet, 2009b)... thực ra không thấm tháp gì so với những hiện tượng
nhũng nhiễu, hạch sách, lấn chiếm đất đai, ăn chặn tiền cứu đói, tiền giúp đỡ
đồng bào bị lũ lụt... và các khoản đóng góp của dân, v.v., xảy ra trong rất
nhiều làng xã...
[54] Cả nước hiện có 166 sân golf, (có tài liệu nói là
trên 140 sân!), nhiều gấp 3 lần mức bình quân của thế giới, diện tích trung bình
200 – 300 ha/sân. Không ít dự án xây dựng sân golf trở thành một phần các dự án
địa ốc trá hình. Hệ quả của việc nông dân mất đất cho sân golf rất nhiều mặt, và
tác động môi trường của sân golf rất lớn.
[55] Tìm đọc và so sánh với Nghị quyết Trung ương số 26
ban hành ngày 05-08-2008 về nông nghiệp, nông dân và nông
thôn.
[56] Hiện nay dư luận cả nước đang xôn xao việc xả lũ công trình thủy điện ở miền Trung trong cơn bão số 11
vừa qua, đặt vấn đề: quy hoạch các công trình thủy điện, chất lượng thiết kế hồ
trữ nước và việc xả lũ có phải là nguyên nhân làm cho lũ trầm trọng thêm khiến
cho nhiều sinh mạng bị cướp đi? Xem Minh Quân (2009), Cẩm Văn Kính (2009)
[57] Vì tập đoàn kinh tế nhà nước được phép dành tới 30%
tổng vốn của mình (nghĩa là rất lớn) cho kinh doanh các sản phẩm trái nghề nên
không hoàn thành việc thực hiện các sản phẩm chính của tập đoàn, lỗ biến thành
lãi, phát sinh nhiều tiêu cực, đồng thời lấn át khu vực kinh tế tư nhân – nhất
là các xí nghiệp nhỏ và vừa. Cần bãi bỏ hẳn quy định này.
[58] Mặc dù có sự giải thích, thanh minh.., song dư luận
trong nước vẫn vô cùng bức xúc về các vụ CPI, Securency, vụ án Nông trường Sông
Hậu, tập đoàn Vinashin…
[59] Năm 1987 nước ta còn thiếu đói
lương thực, năm 1989 nước ta đã xuất khẩu lương thực!
[60] Nguyễn Trung
(2006)
© Thời Đại
Mới
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét